Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hạnh Phúc Và Khổ Đau

03 Tháng Năm 202116:59(Xem: 4027)
Hạnh Phúc Và Khổ Đau
HẠNH PHÚC VÀ KHỔ ĐAU

Tịnh Khả

Hạnh Phúc Và Khổ Đau

Trong cuộc sống, chúng ta thường mong muốn có được hạnh phúc và tránh né sự hiện hữu của khổ đau đến với mình. Thế nhưng, hằng ngày chúng ta khi phải đối diện với biết bao khổ đau hay phiền não mà không có cách gì để giải quyết, dẫn đến rất dễ rơi vào con đường bế tắc. Vậy làm thế nào để chúng ta có được hạnh phúc? Theo quan điểm của đạo Phật, thì hạnh phúc có nghĩa là ít đau khổ. Nếu không chuyển hóa được đau khổ thì không thể nào có hạnh phúc. Chúng ta đau khổ, một phần do không có những phương pháp cụ thể giúp chuyển hóa tham lam, sân hận, si mê. Nếu thực tậpchuyển hóa nổi khổ, niềm đau của tự thân thành công, chúng ta còn có thể giúp những người khác chuyển hóa đau khổ của chính họ. Đức Phật đã từng khẳng định rằng: "Ta chỉ dạy có mỗi một điều mà thôi, đó là khổ đau và con đường để chấm dứt khổ đau". Hay nói một cách khác là con đường đi đến hạnh phúc. Vì vậy khi chuyển hóa được khổ đau thì hạnh phúc sẽ hiện hữu.

câu chuyện được kể như sau:

Một cô gái đến tìm một nhà sư, cô hỏi:

- Thưa thầy, con muốn buông một vài thứ mà không thể, con mệt mỏi và khổ sở quá.

Nhà sư đưa cho cô gái một cốc nước và bảo cô cầm, đoạn ông liên tục rót nước sôi vào cốc, nước chảy tràn ra cả tay, làm cô bị phỏng, cô buông tay làm vỡ cốc.

Lúc này nhà sư từ tốn nói:

- Đau rồi tự khắc sẽ buông!

Vấn đề là tại sao phải đợi tổn thương thật sâu rồi mới buông? Con người thường cố công đi tìm hạnh phúc và muốn níu giữ hạnh phúc cho riêng mình nhưng chỉ được trong thoáng chốc rồi mất. Ngược lại, ai ai cũng muốn thoát khổi khổ đau, xa lìa khổ đau nhưng nó lại thường xuyên đeo bám không rời, luôn luôn có mặt mọi lúc, mọi nơi. Cuộc sống có muôn ngàn sự chọn lựa và chúng ta có nhiều con đường để đi, không ai vạch ra cho ta con đường và bắt ta phải đi theo con đường đó. Số mệnh cuộc đời là do ta quyết định, hạnh phúc hay khổ đau là do ta chọn lựa chứ không ai có thể ban cho ta. Nhiều người muốn đạt đến hạnh phúc nhưng lại quên đi những nhân tố để đưa đến hạnh phúc. Muốn xa lìa khổ đau nhưng lại cố tâm gieo rắc khổ đau cho người khác. Việc làm này không thể nào có được vì nó đi ngược lại với quy luật của nhân và quả.

“Chúng sanh cầu an lạc,

Ai dùng trượng hại người,

Để tìm lạc cho mình,

Đời sau không được lạc”.

(Kinh Pháp Cú 131, phẩm Hình Phạt)

Thế gian thường lầm tưởng rằng số mệnh con người đã được an bày, sắp đặt sẵn hoặc do một vị thần linh, Thượng Đế nào ban cho mà không ai có thể thay đổi được sự sắp đặt này. Mỗi khi gặp phải vấn đề khó khăn không có hướng giải quyết nhiều người không ngần ngại van xin, cầu nguyện Thần này, Thánh nọ ban cho mình được toại nguyện. Điều này có vẻ như trở thành một thói quen và khiến không ít người cư xử với nhau bằng thái độ tiêu cực: chỉ biết cầu xin hơn là tự nỗ lực, sống dựa dẫm, ỷ lại vào người khác mà không biết gieo nhân tốt, nhân lành để gặt quả như ý. Tư tưởng cực đoan này càng ngày càng ăn sâu trong ý nghĩ và hành động của không ít người, khó có thể mà thay đổi được. Con người hành xử với nhau chỉ vì lợi ích cá nhân, mà quên đi lợi ích của người khác, không theo nguyên tắc chung dẫn đến những việc làm sai trái ảnh hưởng không tốt đến đạo đứcđời sống xã hội.

Quan điểm của Đức Phật thì hoàn toàn khác, vận mệnh con người được vận hành theo một quy luật chung gọi đó là luật nhân quả. Luật nhân quả không do ai tạo ra mà là kết quả của quá trình gieo nhân từ đời trước trong một hay nhiều kiếp, hình thành nên đời sống hiện tại. Điều đó có nghĩa rằng không ai có quyền ban cho và cũng không ai lấy đi cái gì của ta cả. Số mệnh con người cũng không nằm ngoài quy luật ấy.

Con người được xem là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, được sanh ra bởi nghiệp, do nghiệp sai sử và lôi kéo. Nghiệp là suy nghĩ, lời nói, hành động có cố ý, có chủ tâm, gọi là có tác ý. Những suy nghĩ, lời nói, hành động có tác ý tạo thành thói quen và hình thành nên tính cách con người. Tùy theo nghiệp nhân của mỗi người đã tạo ra trong quá khứ mà nay nó sẽ chiêu cảm ra quả hiện tại cho nên có người giàu sang, nghèo khó, hạnh phúc hoặc khổ đau. Nếu người có ý nghĩ thiện, lời nói thiện thì hành động sẽ thiện, ngược lại người có suy nghĩ ác, miệng nói ác dẫn đến hành động ác.

Theo luật nhân quả, hạnh phúc hay khổ đau đều do nguyên nhân sâu xa của nó và là kết quả của nghiệp mà ta đã gieo trồng. Nếu muốn có được hạnh phúc thì phải biết gieo nhân lành giúp người, cứu vật, chính mình tạo ra hạnh phúc cho mình chứ không ai ban cho mình được cả. Người đã có vận mệnh may mắn hơn người khác mà còn biết tu tập, làm việc thiện, gieo nhân lành chẳng những cuộc sống hiện tại được hạnh phúc, an vui mà còn là nền tảng cho nhân giải thoát khỏi sanh tử luân hồi về sau, vì đó là con đường đưa đến thành công mà không có đổ máu và nước mắt.

(Bài kệ 354 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú

một lần, trong một buổi họp của các thiên thầncõi trời Ba Mươi Ba, bốn câu hỏi được đặt ra, và không thiên thần nào có câu trả lời chính xác. Cuối cùng, vua Trời Đế Thích dẫn các thiên thần đến gặp Đức Phật tại Tịnh xá Kỳ Viên. Sau khi giải thích sự khó khăn của họ, vua Trời Đế Thích đã thưa hỏi Đức Phật bốn câu hỏi sau đây:

1. Trong số tất cả những món quà tặng, món quà tặng nào là cao quý nhất?
2. Trong số tất cả các hương vị, hương vị nào là thơm ngọt nhất?
3. Trong số tất cả các niềm hạnh phúc, niềm hạnh phúc nào là an lạc nhất?


4. Tại sao chấm dứt được lòng tham muốn, là việc làm xuất sắc nhất?

Đức Phật đã trả lời các câu hỏi này như sau, "Này, Đế Thích, Phật Pháp chính là món quà tặng cao quý nhất, là hương vị thơm ngon nhất, và là niềm hạnh phúc an lạc nhất. Chấm dứt được lòng tham muốn, là dẫn đến quả vị A La Hán. Cho nên, điều này chính là việc làm xuất sắc nhất".

Ngài ví dụ rằng cái khổ của con ngựa, con lạc đà vì chở nặng cũng chưa phải gọi là khổ chỉ có người vô minh chưa dứt khỏi luân hồi mới thực sự là khổ. Vì sự khổ của con ngựa, con lạc đà kia chỉ khổ trong đời hiện tại, do nhân xấu quá khứ đã tạo nên đời này phải rơi vào hoàn cảnh khốn khó như vậy, để trả “nợ cũ” theo lẽ công bằng của luật nhân quả: gieo gió thì gặp bão. Còn sự khổ của người luân hồivô minh, ái dục thì vô cùng tận không biết ngày nào ra khỏi. Trong vòng luân hồi sanh tử có khi ta được làm người, trời, A-tu-la cũng có khi sanh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh chịu đựng muôn ngàn sự khổ đau. Cho nên, người chấm dứt được lòng tham muốn, đoạn trừ nhân sanh tử luân hồi được Đức Phật khen ngợi là việc làm xuất sắc nhất trong tất cả các việc làm.

Tuy nhiên, muốn xoay chuyển vận mệnh của cuộc đời không phải là một việc dễ làm. Một sớm một chiều mà có thể thực hiện được vì đó là cả một quá trình tích lũy nghiệp mà chúng ta đã tạo trong nhiều đời quá khứ. Muốn chấm dứt khổ điều trước tiên cần phải biết nguyên nhân của khổ và phương pháp để chuyển hóa được khổ khiến vận mệnh của mình ngày một thăng hoa.

Phật dạy tất cả các pháp trên thế gian đều vô thường, vô ngã. Suy nghĩ và hành động của con người cũng vậy luôn luôn thay đổi và chịu tác động bởi hoàn cảnh xung quanh. Tuy rằng nghiệp tạo ra số phận con người trong hiện tại nhưng nó không phải là cái gì cố định, bất di bất dịch. Nghiệp không cố định, cái gì có sanh thì phải có diệt, nghiệp cũng vô thường, nghiệp do chúng ta tạo ra thì chính mình có thể thay đổi nó. Do đó, ta có thể thay đổi, chuyển hóa được nghiệp, nhờ sự chuyển hóa mà kẻ xấu có thể trở thành người tốt, kẻ dở trở thành người hay, kẻ ngu trở thành người trí, kẻ phàm thành bậc Thánh nhân... chuyển đổi bằng cách tu tập thân khẩu ý, nhờ sự sám hối hướng thiện theo lời Phật dạy nên nghiệp được thay đổi. Như vậy, để thay đổi vận mệnh cuộc đời theo chiều hướng tốt đẹp hơn, mỗi Phật tử cần phải giữ gìn pháp Tam quy ngũ giới, lấy 10 điều thiện làm phương châm tu tập để thân khẩu ý được thanh tịnh, là nhân giải thoát, chấm dứt sanh tử luân hồi về sau.

Quá trình tu tập cần phải có chánh tri kiến, tức là có cái nhìn đúng đắn, chân chánh để không lầm đường lạc lối đi theo tà pháp. Lấy trí tuệ làm sự nghiệp, khai thác triệt để sức mạnh của trí tuệ đang tiềm ẩn trong mỗi chúng ta. Muốn vận mệnh mình được hạnh phúc, an vui chúng ta cần phải hành thiện, đoạn ác mọi lúc, mọi nơi. Kinh Pháp Cú Đức Phật dạy: “Chớ chê điều thiện nhỏ mà không làm, chớ khinh điều ác nhỏ mà làm, giống như nước nhỏ từng giọt lâu ngày cũng trở nên đầy bình”. Nghiệp của chúng ta cũng giống như vậy, nó được tích lũy dần dần đến khi hội đủ nhân duyên sẽ hình thành nên kết quả mà chúng ta phải lãnh chịu. Đó chính là quá trình tích lũy thiện nghiệp cho đời sống hiện tại. Nếu muốn có được an lạc hạnh phúc thì phải gieo nhân an lạc hạnh phúc, ông bà ta từng dạy: “Đoạn ác tu thiện, dứt trừ tai ương, phước thọ miên trường” chẳng lẽ không đúng với lời Phật dạy hay sao? Ngược lại, nếu ta có được cuộc sống giàu sang, sung sướng không biết tu tập, tích lũy phước báo mà chỉ lo hưởng thụ thì phước báu có cao như núi Thái Sơn rồi cũng sẽ sụp đổ.

Đôi khi chúng ta muốn mọi sự, mọi việc đều phải tuân theo ý muốn của mình, nhưng điều đó không phải ai cũng được toại nguyện và đây chính là nguyên nhân phát sanh khổ đau. Nếu như gặp phải hoàn cảnh trái ý nghịch lòng, thay vì hận người này, trách người kia, như vậy mình sẽ cảm thấy bế tắc càng thấy khổ đau hơn mà thôi. Ngược lại, nếu biết quán chiếu suy nghĩ nhìn nhận sự việc một cách khách quan biết rằng tất cả những khổ đau mà ta đang gánh chịu chẳng qua chỉ là một phần nhân quả đời trước đã tạo. Mình hoan hỷ chấp nhận, tu tậpsám hối lỗi lầm để có được một cuộc sống tràn đầy an vui bỏ qua quá khứ đau buồn, sống trong hiện tại, để cảm nhận từng phút giây an lạc tĩnh lặng của nội tâm.

Gặp phải hoàn cảnh trái ý nghịch lòng như vậy đôi khi cũng là bài học, một điều kiện tốt để ta học hỏi nhiều thứ mới mẻ và phấn đấu để có một tương lai tốt đẹp hơn. Khi vấn đề được giải quyết xong rồi, khổ đau chấm dứt, chướng ngại không còn tâm ta được giải thoát thực sự. Đây chính là an lạc hạnh phúc mà không phải ai mong muốn đều có được!

Khổ đau trên cuộc đời dành cho con người là một phần tất yếu của cuộc sống không ai có thể tránh khỏi và ai trong chúng ta không ít thì nhiều cũng từng nếm phải mùi vị khổ đau. Biết chấp nhận để vượt qua, không phải trốn tránh mà được. Khổ đau là kết quả của sự tham muốn vô độ nên người có nhiều sự tham muốn thì khổ đau sẽ càng nhiều, càng ít sự ham muốn thì khổ đau nhẹ đi một phần. Đức Phật tuyên bố: “Biển có thể cạn, núi có thể sụp đổ, quả đất có thể băng hoại nhưng khổ đau không bao giờ chấm dứt đối với người còn vô minh và ái dục”. Gốc rễ của tham áinguyên nhân dẫn đến sinh tử luân hồi khiến chúng ta phải chịu khổ trong nhiều kiếp. Đoạn trừ được tham áicon đường đưa đến hạnh phúc về sau và đây là việc làm xuất sắc nhất được Đức Phật khen ngợi trong tất cả các việc làm.

Tịnh Khả

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 786)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 688)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 719)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 705)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 797)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 939)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1409)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 957)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1001)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 795)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 751)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 764)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 628)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1293)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1171)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1144)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1233)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1159)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1035)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1156)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1126)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1244)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1134)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1196)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1106)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1174)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1752)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1148)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1178)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1289)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1174)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant