Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thực Tập Hạnh Lắng Nghe Và Thấu Hiểu Theo Bồ Tát Quán Thế Âm

04 Tháng Sáu 202119:32(Xem: 3425)
Thực Tập Hạnh Lắng Nghe Và Thấu Hiểu Theo Bồ Tát Quán Thế Âm
Thực Tập Hạnh Lắng Nghe Và Thấu Hiểu Theo Bồ Tát Quán Thế Âm  

Thích Trung Định


mua xuan cua hien tai
 














Lắng nghe và thấu hiểu là hai chất liệu vô cùng cần thiết để hiến dâng cho đời, có khả năng xóa đi những nỗi khổ niềm đau, nội kết và thù hận, mang lại an lạc hạnh phúc cho mọi người. Nỗi đau khổ của con người cần phải được xoa dịu bằng tình thương, chỉ có chất liệu yêu thương mới xóa hết hận thù. Thiếu tình thương cuộc đời sẽ trở thành bãi sa mạc hoang vu. Tình thương sẽ mở cửa tâm hồn, tưới tẩm làm cho hạt giống thiện lành hé nở. Vì thế, hành giả trên bước đường hành Bồ tát Đạo phải thực tập hạnh lắng nghe và thấu hiểu, phải hội đủ bốn âm thanh và quán sâu năm pháp quán theo kinh Phổ Môn. Bốn âm thanh đó là: Diệu âm, Quán thế âm, Phạm âm, Hải triều âm. Và năm quán:

Chơn quán, Thanh tịnh quán
Quãng đại trí tuệ quán

Bi quánTừ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.

“Từ” là luôn luôn đem niềm vui đến cho người khác, “bi” là phương châm, là cách thức hành động để cứu khổ. “Từ” là lòng yêu thương, “bi” là ra tay cứu giúp và dấn thân, nỗ lực làm việc để cứu giúp. Từ bi là cho vui và cứu khổ một cách vô tư, bình đẳng, không bị thời gian chi phối, không bị không gian ngăn cách, không phân biệt thân sơ, giàu nghèo, thương người như thương mình, cứu người như cứu mình. Bản chất của từ bi không ẩn lòng ích kỷ, không phải lòng thương hữu hạn của phàm tình, do ân nghĩa, ái kiến phát sinh. Từ bi là hai ý nghĩa khác nhau: “Từ” luôn luôn giữ điều vui, “Bi” luôn luôn làm tan sự khổ. Vì vậy, “Tu “từ quán” dịu dàng bao nhiêu thì phương pháp “Bi quán” mạnh mẽ bấy nhiêu. Từ dịu dàng như những vần mây, bi mạnh bạo như sấm rền, sấm linh động mây mới tan, mới có mưa, mới đượm nhuần cỏ cây, mới tưới mát được cõi trần gian. Cũng vậy, người tu niệm cũng như mây, như sấm. Thực hành phương pháp Bi thiếu Từ không được, thực hành Từ thiếu Bi cũng không được” [1].

Phép quán từ bi thường thực tập theo hai cách: mở rộng tình thương tuần tự đi từ những người thân trong gia đình, cha mẹ, anh em, bạn bè, rồi đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù và tập thế nào cho đến khi mình thấy kẻ thù cũng giống như người thân nhất của mình mới thôi. Hoặc trở ngược lại đi từ kẻ thù dần đến người thân nhất cho đến quán thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân mới thôi. Tình thương ấy cũng không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân loại mà còn lan đến muôn vật cỏ cây, nghĩa là toàn bộ những gì có sự sống.

Mặc dù người và muôn vật hình thức có khác nhau nhưng sự sống chỉ là một. Sự sống đã là một thì tình thương sao lại phải phân chia. Làm đau khổ một khía cạnh nào của sự sống, cũng là làm đau khổ sự sống chính mình. Vì sự sống của mình và chúng sanh là một. Như vậy, từ bi của Đạo Phật là một tình thương rộng rãi mênh mông, trang trải từ chúng sanh đến muôn vật; có tác dụng quý báu, thiết thực lợi ích cho cuộc đời, có ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó giúp con người trở nên hiền lành, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, biết tôn trọng sự sống với tất cả và không vì lý do gì lại tàn sát đồng loại hay gây chiến tranh.

Khát vọng khẩn thiết của xã hội hôm nay là an lạc, là xóa bỏ khổ đau nên những trái tim của Bồ tát Quán Thế Âm hôm nay cần phải thị hiện. Đây chính là lúc vận dụng mọi hình thái phát triển tình thương. Một khi tình thương đã trở thành sông biển, một khi ý chí thể hiện tình thương đã trở thành gió bão thì mọi thành trì bạo lực sẽ dần dần sụp đổ. Cuộc đời của các vị Bồ tát đã khắc phục khổ đau bằng cách anh dũng đối đầu với nó. Đối với người đang đi trên đường tiến đến quả vị toàn giác, sự đau khổ không còn là sự lo buồn cá nhân và sự trăn trở về hạnh phúc của riêng mình, sự đau khổ của tất cả chúng sanh chính là sự đau khổ của mình. Chính trong tinh thần này mà tất cả những ai muốn đi theo con đường thánh thiện của Đức Phật đều phát lời thệ nguyện Bồ tát.

Trí tuệ quáncon đường giải thoát, là công phu thực tập lời dạy tỉnh thức của các bậc giác ngộ để tìm lại tiềm năng trí tuệ chân thật vốn ngủ say trong tâm. Trí tuệ thật chứng của chư Phật, chư Bồ tát là những soi sáng, là những đối tượng gợi cho sự tỉnh thứcquay về tìm lại giá trị chân tâm đích thực sẵn có của mỗi người. Trong quá trình quay về, chúng ta cần có hai khả năng kết hợp: khả năng tự lực và khả năng tha lực.

Khả năng tự lực là tin mình có đầy đủ trí tuệ và phải nỗ lực thiền định để phát huy trí tuệ ấy. Khả năng tha lựcthể tánh thanh tịnh của muôn pháp, Đức Bồ tát Quán Thế Âm sau khi thành tựu được trí tuệ, hội nhập với thể tánh thanh tịnh của muôn pháp và lòng từ bi cứu khổ chúng sanh của Ngài phát xuất từ thể tánh thanh tịnh ấy! Chính thể tánh thanh tịnh này là khả năng tha lực. Tin lòng từ bi vô biên và tin sự cứu độ bình đẳng của Đức Bồ tát Quán Thế Âm ta tin hai khả năng kết hợp giữa ta và Ngài, giữa sự tiếp xúc bên trong và bên ngoài. Tin tha lực, tin sự cơ cảm, của Bồ tát Quán Thế Âm cũng có nghĩa là ta phải nỗ lực quán chiếu, kiểm soát nội tâm để vun bồi và làm nảy nở hạt giống từ bi cho mỗi ngày thêm lớn. Vì vậy, khi chúng ta tin kính đảnh lễ cầu sự cứu rỗi của Bồ tát Quán Thế Âm là tin trong ta và ngoài ta có một khả năng trí tuệ tuyệt đối, có đủ năng lực mầu nhiệm làm tung vỡ cái ý thuyết sai lạc của ý thức phân biệt. Khi cái thấy sai lạc của ý thức phân biệt không còn nữa thì khổ đau không có nơi chốn để phụ thuộc vào. Thực chứng trí tuệ là đoạn trừ mê lầmdiệt trừ tất cả khổ não từ vô lượng kiếp! Vì vậy trong cuộc tranh chấp với bóng tối, chỉ có ánh sáng mới đóng vai trò quyết định. Muốn giải thoát con người khỏi bóng tối ngu si, nếu khôngtrí tuệ thì không một quyền năng nào có thể tiêu trừ nổi, giống như bấc và dầu giúp cây đèn phát sanh ánh sáng. Cũng vậy, muốn thắp cây đèn trí tuệ trong mỗi người, hẳn phải nhờ một số trợ duyên thích nghi, mà chính là phương pháp tu tập. Nhờ phương pháp tu tập đúng đắn sẽ thắp được cây đèn trí tuệ. Cây đèn trí tuệ khi đã thắp lên, tức những bóng tối vô minh không còn hiện hữu. Vì vậy, hành giả tu tập phải luôn trở về với Phật tâm của chính mình, đi vào thiền quán để thắp ngọn đèn trí tuệ trong tâm sáng mãi không bị lu mờ.

Như đã nói, pháp quán trí tuệ này là pháp quán của hàng Bồ tát, vì có trí tuệ rốt ráo, lòng từ bi mới chan hoà rộng lớn. Tức là có sự hiểu biết đúng đắn, sâu sắc mới có lòng thương yêu bình đẳnghành đạo lợi tha không mỏi mệt. Bằng trí tuệtâm từ bi đức, Bồ tát Quán Thế Âm thệ nguyện đi vào thế gian, vào mọi cảnh giới để cứu khổ chúng sanh không bao giờ cùng tận.

Nếu như kẻ phàm phu mãi sống trong tâm thức tối tăm, lấy dục lạc làm niềm vui, lấy tham ái làm linh hồn, ngược lại, các vị Bồ tát luôn soi sáng đời sống mình bằng trí tuệ vô ngã, bởi vì trí tuệ được xem là sự nghiệp, là linh hồn một vị Bồ tát. Bởi trí tuệ thâm sâu, Bồ tát diệt trừ bản ngã hẹp hòi của mình, hòa vào thực tại rộng lớn, từ đó thấy được mối liên hệ giữa mình và người, giữa một và tất cả. Cũng như trí tuệ ấy, Bồ tát hiểu rằng vạn pháphuyễn hoá, khổ đau cũng như muôn pháp khác đều không thực, trí tuệ luôn luôn gắn liền với đời sống của các vị Bồ tát, trong mọi lúc mọi nơi. Trí tuệ được xem là sự nghiệp là ánh minh quang luôn soi sáng mọi hành vi ý niệm. Khi đã an trú vào trí tuệ vô ngã, hàng Bồ tát thường quán chiếu về sự ảo hoá của vạn pháp theo nguyên lý tánh không và lúc đó mọi sự bám víu vào huyễn tướng của các pháp, mọi ý niệm cho rằng chúng ta thực có sẽ bị tan biến như mây khói. Ngay cả ý niệm về tánh cũng không hề nắm giữ.

Đức Bồ tát Quán Thế Âm trọn ngày ở trong trần lao độ sanhthật không có tướng trần lao. Tâm lợi sanh chẳng phải có mà có, có mà chẳng có. Như trăng dưới nước, hoa đốm giữa hư không, không chấp đắm không an trú vào đâu cả, tuy dấn thân vào đời ngũ trược mà vẫn thanh tịnh không nhơ bẩn. Như hoa sen vượt lên trên bùn. Giống như “Dạo vườn hoa trăm thứ, thân chẳng động một cành” [2].

Trong tất cả các đại nguyện, đại nguyện thanh tịnh là khó nhất, thế nhưng hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm, khi tu là “Quán thanh tịnh không nhơ” khi chứng đắc thì hoà nhập vào cõi thế gian đầy uế trược để độ chúng sanh. Bồ tát Quán Thế Âm hoá hiện thân không phân biệt, khi chúng sanh cần hiện thân rắn để hoá độ, Ngài vẫn hoá hiện thân rắn, mà vẫn không hề ngại tanh hôi. Phàm là đệ tử Phật, phát nguyện thừa hành Bồ tát hạnh, thì sẵn sàng hoan hỷ đi vào các nơi đau khổ, các nơi dơ bẩn, khổ đau, nơi đó cần Từ, cần Bi, cần Trí, cần Tuệ nhất là cần pháp môn “Quán thanh tịnh không nhơ”. Thời kỳ hành giả quán nhập được “Thanh Tịnh” sắp đi vào các pháp vốn chân không thì chẳng dơ sạch, chẳng còn cấu tịnh, chẳng còn nhiễm hay bất nhiễm. Khi đã chứng đắc trình độ nhập vào pháp quán “Thanh Tịnh” và đã đắc ngộ đến trình độ không còn có giữa sự dơ và sạch khác nhau, lúc bấy giờ mới chuyển sang quán “Chơn”, tức là quán chơn không. Các pháp vốn từ chơn không hoà nhập vào các pháp, rồi từ các pháp quay hoàn trả lại chơn không.

Cái nhìn trí tuệ, hay cái nhìn Quán Thế Âm có thể giúp con người nhận ra thực chất của cuộc sống và mọi sự vật với kết quả là tư tưởng, cảm giácgiải thoát sinh khởi, hiện hữu ngay trong đời sống của họ. Vì mọi sự vật đang nói tiếng nói vô thường, khổ và vô ngã, nghĩa là chúng đang nói về ba đặc tính chân thật (tam pháp ấn) của tất cả pháp hữu vi. Do đó, nếu có thể lắng nghe những tiếng nói ấy như thật, chắc chắn chúng ta sẽ đi ra khỏi sự chấp thủ về một cái ngã sai lầm, không có các ý tưởng “về tôi”, “của tôi” và “tự ngã của tôi” trong tâm thức chúng ta. Như vậy khổ đau không có nơi để trú ẩn.

Vì vậy, muốn thành tựu mục tiêu của cuộc sống, thành tựu trí tuệhạnh phúc vĩnh hằng, không còn phương cách nào ngoài sự giác tỉnh của nội tâm, phải giác tỉnh ngay, giác tỉnh đối với ngũ uẩn mới gọi là sống, một lối sống chánh hạnh đối với vô tham, vô sân, vô si, giải quyết mọi chướng duyên trong hành trình đến bờ giải thoát. Cái nhìn đó chính là “tuệ quán” là sự quán xét bằng trí tuệ về ngũ uẩn, về vạn pháp duyên sinh vô ngã ngay chính hiện tại.

Tóm lại, thực tập hạnh lắng nghe và thấu hiểu theo hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm để đi vào cuộc đời làm lợi ích cuộc đời. Muốn thấu hiểu thì phải lắng nghe và ngược lại. Quán Thế Âm là lắng nghe âm thanh của chúng sinh, nơi nào có tiếng kêu khổ đau thì Bồ tát thị hiện để cứu khổ. Cuộc đời còn lắm nỗi khổ đau nên rất cần đến sự lắng nghe và thấu hiểu. Đây cũng là nguyên tắc vàng áp dụng giữa cuộc đời nhằm kiến tạo niềm an lạc, hạnh phúc cho mọi người. Chúng ta hãy chịu khó lắng nghe, vì còn biết bao nhiêu nỗi khổ niềm đau cần ai đó lắng nghe để thấu hiểu. Vợ chồng lắng nghe nhau, anh lắng nghe em, thầy lắng nghe trò… để thấu hiểu nỗi niềm của họ, nhằm xoa dịu nỗi đau trong tâm họ. Có thể từ một cử chỉ nhẹ nhàng này mà làm thay đổi cuộc đời theo hướng tích cực hơn. Như Trịnh Công Sơn nói: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”. Mọi người đừng nên vô tâm mà hãy thấu hiểu và yêu thương hiến tặng cho đời.

 

Chú thích:

* Đại đức Tiến sĩ Thích Trung Định, Ủy viên Ban văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Chánh Thư ký Phân ban Hoằng pháp Hải ngoại – Ban Hoằng Pháp Trung ương – Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

[1] Thích Thông Bửu, Kinh DPLH phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ tát giảng luận, Nxb Thế giới, tr.147.
[2] Thích Trí Nghiêm dịch, Kinh DPLH phẩm Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn giảng lục, tr.230.

 
(Văn Hóa Phật Giáo số 364)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2505)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2043)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2484)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1824)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1909)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2195)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2718)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1638)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1554)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1741)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1579)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2162)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2314)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2011)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1807)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1719)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1907)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1645)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2605)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1761)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2120)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2099)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2432)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1746)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 1923)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1804)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 1975)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2543)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3575)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2225)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2244)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1623)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1925)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2271)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2262)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2106)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3054)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2085)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2480)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2006)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1929)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2141)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2420)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 1992)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2397)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2335)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
(Xem: 2916)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1998)
Mặt trời khi xuất hiệnrạng rỡ, bừng sáng, dứt khoát xóa tan bóng tối để chiếm lĩnh cả không gian của thiên địa càn khôn. Mặt trăng thì không như vậy.
(Xem: 1900)
Từ cạnh tranh sinh tồn giữa các loài sinh vật, cho đến mâu thuẫn xã hội, hận thù tranh chấp, là những nét đặc trưng trong lịch sử tiến hóa, không chỉ riêng loài người.
(Xem: 2215)
Phật tử chúng ta được biết rằng, đã quy y Tam bảothọ trì năm giới ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant