Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chân Tâm Thể Hiện Thân Tâm

21 Tháng Bảy 202117:58(Xem: 3332)
Chân Tâm Thể Hiện Thân Tâm

Chân Tâm Thể Hiện Thân Tâm

Huệ Trân

mua xuan cua hien tai

 

Câu chuyện nhỏ, do cơ duyên, xảy ra đã lâu, dường như lâu tới hơn hai thế kỷ! Lâu vậy, mà như không lâu, câu chuyện, ngỡ bình thường mà lại không bình thường nếu người trong cuộc không có tên là Thomas Jefferson. Đó là một buổi chiều mùa đông lạnh giá tại miền Bắc Virginia.


Con đường hun hút không một bóng người, dẫn tới bờ sông dòng nước hung hãn chảy xiết là nỗi tuyệt vọng của một lão ông đơn độc, đang nhìn thấy thần chết mỗi lúc mỗi đến gần.

Không có phương tiện nào để qua sông trong mùa này. Lão ông biết vậy, nhưng không thể biết hết những bất ngờ mà ông lại phải trở về nhà ngay, đành cố lết tới bờ sông, hy vọng ai đó có phương tiện qua bên kia, sẽ giúp đỡ. Lão ông đã ngồi đó, từ khi mặt trời đứng bóng và bây giờ, mặt trời đang lặn ở phương tây.

Khi chòm râu bạc đang cứng dần thành đá thì ông nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập, đều đặn, từ cuối con đường heo hút, đang tiến về hướng bờ sông. Một sức mạnh tinh thần của bản năng sinh tồn khiến lão ông đứng bật dậy.

Và đây, người kỵ sỹ đầu tiên trong đoàn kỵ mã phi ngựa qua trước mặt ông, vượt qua sông. Rồi người thứ hai. Rồi người thứ ba ….

Lão ông vẫn đứng đó, không một người và ngựa nào dừng lại, sau những ánh mắt lạnh lùng, không cả vương một chút quan tâm “Đứng đây làm gì?”

Rồi cũng tới người và ngựa cuối cùng trong đoàn kỵ mã đang trờ tới. Lão ông vận dụng toàn lực, ngước nhìn, và chạm vào ánh mắt của chàng kỵ sỹ.

Chỉ thế thôi. Lão ông chưa kịp lên tiếng cầu cứu nhưng người và ngựa đã chậm lại. Bốn mắt nhìn nhau. Và phút giây đó là ngôn ngữ của Tình Người, không phải chỉ là âm thanh của lời cầu cứu:

-Nhà tôi bên kia sông, anh có thể cho tôi cùng qua bên đó không?

Chàng kỵ sỹ vừa ghìm cương ngựa, vừa vui vẻ nói;

-Sao không? Ông lên đây đi!

Nhưng tất cả sức lực của lão ông như chỉ còn chừng đó, ông quỵ xuống, không bước nổi.

Chàng kỵ sỹ vội xuống ngựa, đỡ ông lên, rồi không chỉ đưa ông lão qua sông mà còn đưa ông về tận nhà, một thôn xóm khuất sau khu rừng thưa.

Trước khi chia tay, chàng kỵ sỹ không thể không nói lên niềm băn khoăn:

-Này lão ông, tôi là người cuối cùng trong đoàn kỵ binh. Bao nhiêu đồng đội của tôi đã đi ngang qua, sao ông vẫn đứng chịu lạnh, không xin giúp đỡ? Vậy, nếu tôi, người cuối cùng, cũng đi qua thì ông sẽ chết cóng đêm nay bên bờ sông ư?

Lúc đó lão ông mới ưu ái nhìn thẳng vào ánh mắt chàng kỵ sỹ mà nói lời cám ơn rằng:

-Dạ, lão biết. Nếu không ai giúp đỡ, lão sẽ chết đêm nay, bên bờ sông này.  Lão sống tại vùng này từ nhỏ, nay đã gần tám mươi, và trực giác thường cho lão những cảm nhận đúng, để có quyết định trước mỗi hoàn cảnh. Đoàn kỵ binh đã lần lượt qua mặt lão, vài người đã phi ngựa chậm hơn nhưng chỉ là những cái nhìn tò mò. Thoáng nhìn ánh mắt họ, lão biết rằng họ không đủ quan tâm để lão mở lời cầu cứu. Tình Người chưa đủ thì sẽ có đủ mọi lý do để người từ chối giúp người, nên lão đã không mở lời. Nhưng khi lão nhìn vào ánh mắt của người cuối cùng, lão biết ngay đây sẽ là ân nhân cứu mạng. Mà sự thật đúng như vậy, phải không? Lão và toàn gia đình xin Thượng Đế luôn ban ơn cho Ngài”

Lời bộc bạch chân tình của lão ông đã khiến chàng kỵ sỹ xúc động mà đáp:

-Cám ơn những gì lão ông vừa nói. Tôi hy vọng sẽ không vì quá bận rộn đến nỗi không đủ quan tâm để giúp đỡ những người cần giúp mà tôi được gặp.

Rồi chàng kỵ sỹ chào tạm biệt gia đình ông lão.

Vì có nhiều khả năng, thiên phú cũng như tinh tấn học hỏi, chàng kỵ sỹ đó đã thường xuyên bận rộn vì được  mọi nơi, mọi người tin tưởng. Từ hành nghề luật sư năm mới 23 tuổi; rồi nhà canh nông phát minh loại máy cày Mold Board Plow được nông dân Mỹ ưa thích; tới nhà khoa học, phát minh Stopwatch, loại đồng hồ bấm; tới khả năng kiến trúc sư, tự vẽ kiểu tòa nhà Monticello 35 phòng cho chính mình mà nay vẫn được đánh giádinh thự lịch sử đẹp nhất của Hoa Kỳ; rồi tới chức vụ Ngoại Trưởng trong nội các của Tổng Thống George Washington. Chính từ con đường này, khả năng lãnh đạo của ông quá rõ rệt nên lần bầu cử Tổng Thống năm 1800, ông đã đắc cử, trở thành vị Tổng Thống thứ ba của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, với hai nhiệm kỳ, từ 1801 tới 1809.

Chàng kỵ sỹ đó đã miệt mài đi suốt chặng đường phục vụ nhân sinh mà hơn hai thập niên qua, bất kể thể chế nào, sắc áo nào, mầu cờ nào đều không thể phủ nhận đây là một, trong những bậc vĩ nhân của nhân loại.

Đó là Thomas Jefferson, tác giả Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, soạn thảo năm 1776.

Đó là Thomas Jefferson, tác giả đạo luật Virginia về Tự Do Tôn Giáo.

Đó là Thomas Jefferson, người đã tận dụng hơn 10 năm cuối đời vào việc sáng lập Đại Học Virginia.

Có lẽ, đối với Thomas Jefferson, đây là ba mục tiêu quan trọng mà ông quyết tâm, quyết chí hoàn tất, vì những mục tiêu này sẽ được duy trì để làm lợi ích cho nhân loại.

Do nhận định rõ rệt này mà Thomas Jefferson đã viết ra, rồi cho thợ khắc sẵn trên bia bộ mình những dòng chữ ngắn gọn:

“Đây là nơi an nghỉ của Thomas Jefferson, tác giả của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, của Đạo Luật Virginia về Tự Do Tôn Giáo, của người Sáng Lập Đại Học Virginia”

Trên mộ bia không ghi chức vụ Tổng Thống Thứ Ba của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ nhưng hơn hai thế kỷ qua, dân tộc của xứ sở này đã không ngừng biểu lộ lòng biết ơn qua sự đánh dấu thời điểm là Lễ Độc Lập 4 Tháng 7 mỗi năm.

 6

7
(Nhà tưởng niệm Thomas Jefferson bên hồ Tidal Basin – Washington DC)


Sự trùng hợp kỳ diệu của lịch sử là ngày 4 Tháng 7 năm 1826, khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập vừa tròn 50 tuổi, cũng là ngày Thomas Jefferson lặng lẽ rời bỏ cõi tạm này ở tuổi 83.

Trùng hợp kỳ diệu, hay con người kỳ diệu này cảm nhận rằng, tới đây đã hoàn thành sứ mạng của một kiếp người ngắn ngủi!

 

Xứng đáng thay!

Huệ Trân

(Tào-Khê tịnh thất – Ngày Lễ Độc Lập Hoa Kỳ 4/7/2020)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 770)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1095)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 994)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1334)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 753)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 819)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 821)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 978)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 920)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 919)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 846)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1002)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 947)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1002)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1136)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1603)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1244)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1103)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 963)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1262)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1364)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1319)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1464)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1197)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1296)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant