Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Tánh Là Nền Tảng Từ Đó Mọi Hiện Hữu Lưu Xuất Và Biểu Lộ

30 Tháng Bảy 202119:56(Xem: 3262)
Phật Tánh Là Nền Tảng Từ Đó Mọi Hiện Hữu Lưu Xuất Và Biểu Lộ

Phật Tánh Là Nền Tảng Từ Đó Mọi Hiện Hữu Lưu Xuất Và Biểu Lộ


Nguyễn Thế Đăng

Công Đức Chiêm Bái Phật Tích

 

Phật tánhNhư Lai tạng” (phẩm Như Lai tánh). Tạng có nghĩa là bao trùm chứa giữ tất cả chúng sanh và muôn sự muôn vật, tất cả hiện hữu thanh tịnhbất tịnh.

Phật tánhtánh Không, ánh sáng và năng lực.

Tánh Không, ánh sáng và năng lực là Nền tảng tạo ra tất cả mọi hiện hữu của sanh tửNiết bàn. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu sự tạo ra tất cả mọi hiện hữu là như thế nào.

 

Tánh Không

Phật dạy: Thiện nam tử! Bản tánh của tất cả các pháp vốn trụ nơi vô trụ.

Thiện nam tử! Phàm nói rằng trụ, đó gọi là sắc pháp. Từ nhân duyên sanh nên gọi là trụ. Nhân duyên không có xứ sở, nên gọi là vô trụ. Như Lai đã đoạn dứt tất cả sắc trói buộc, vì sao lại nói rằng Như Lai trụ? Với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.

Trụ là pháp hữu vi. Như Lai đã đoạn dứt các pháp hữu vi nên là chẳng trụ. Trụ là pháp trống không. Như Lai đã đoạn dứt pháp trống không như vậy, thế nên được thường, lạc, ngã, tịnh. Trụ là hai mươi lăm cõi hữu. Như Lai đã đoạn dứt hai mươi lăm cõi hữu, vì sao lại nói nguyện xin Như Lai trụ?

Có trụ tức là tất cả phàm phu. Các thánh thì không đi, không đến, không trụ. Như Lai đã đoạn dứt các tướng đi, đến, trụ, vì sao lại nói nguyện xin trụ?

Phàm vô trụ gọi là Vô Biên Thân. Phàm vô trụ gọi là hư không. Tánh của Như Lai đồng như hư không, sao lại nói rằng trụ?

Lại vô trụ gọi là Kim cương tam muội: Kim cương tam muội phá tan tất cả trụ. Kim cương tam muội tức là Như Lai, sao lại nói rằng trụ?

Lại vô trụ gọi là huyễn. Như Lai đồng huyễn, sao lại nói rằng trụ?

Lại vô trụ là vô chung vô thủy. Tánh của Như Lai không có thủy chung, sao lại nói rằng trụ?

Lại vô trụpháp giới vô biên. Pháp giới vô biên tức là Như Lai, sao lại nói rằng trụ?

Lại vô trụchúng sanh giới vô biên. Như Lai đã đến tột vô biên của tất cả chúng sanh giới mà không có chỗ trụ.

Lại vô trụ gọi là không có chỗ ở. Không có chỗ ở gọi là không hiện hữu. Không hiện hữu gọi là vô sanh, vô sanh gọi là không chết. Không chết gọi là vô tướng. Vô tướng gọi là không trói buộc. Không trói buộc gọi là không vướng mắc. Không vướng mắc gọi là không phiền não. Không phiền não tức là thiện. Thiện là vô vi. Vô vi tức là Đại Niết bàn. Đại Niết bàn tức là thường, thường tức là ngã, ngã tức là tịnh, tịnh tức là lạc. Thường, lạc, ngã, tịnh chính là Như Lai.

Thiện nam tử! Ví như hư không, chẳng trụ mười phương, Như Lai cũng thế, chẳng trụ mười phương” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Tất cả các pháp vốn trụ nơi vô trụ, nghĩa là trụ nơi tánh Không. Tánh Không là nền tảng vô trụ của tất cả các pháp, của mọi sự xuất hiện. Vô trụ có nghĩa là toàn khắp, không chỗ nào không có như hư không, là luôn luôn hiện hữu.

Các pháp do nhân duyên sanh ra tức các pháp hữu vi thì có chỗ trụ. Và có chỗ trụ bèn có không gian thời gian, có chỗ trụ bèn tạo thành sanh tử với hai mươi lăm cõi hữu.

Có trụ bèn là có tướng, có tướng tức là có sanh tử. Thế nên người tu hành chỉ cần nhớ và thực hành: có trụ là có sanh tử, không trụ tức là Niết bàn.

Tất cả các pháp và chúng sanh vốn trụ nơi vô trụ, không đến, không đi, không trụ. Thế mà người thường lại thấy các pháp và chúng sanh có trụ, có đến, có đi. Bởi vì thấy tất cả là có thật, thật trụ, thật đến, thật đi, chính cái này tạo ra sanh tử để lọt ngay vào. Trong khi đó, thực tạivô trụ, là huyễn: “Lại vô trụ gọi là huyễn, Như Lai đồng huyễn, sao lại nói rằng trụ?”.

Thật ra, các pháp và chúng sanh được sanh ra, được phóng chiếu ra từ nền tảng Phật tánh vô trụ là tánh Không, cho nên các pháp và chúng sanh chính là tánh Không, “không trói buộc, không vướng mắc”. Các pháp và chúng sanh vốn là tự giải thoát.

 

Nhưng tánh Không không có nghĩa là không có gì cả, Kinh nói đến Trung đạo: Không – Bất không. Tánh Không cũng tức là Phật tánh, cũng tức là Như Lai, cũng tức là Đại Niết bàn, cũng tức là Vô Biên Thân, cũng tức là thường lạc ngã tịnh.

Các pháp và chúng sanh vốn trụ nơi vô trụ, các pháp lưu xuất từ vô trụ, mà vô trụ tức là Như Lai, tức là Đại Niết bàn, tức là Vô Biên Thân. Thế nên các pháp và chúng sanh lưu xuất từ Như Lai vô trụ, các pháp là biểu hiện của “tánh Như Lai đồng với hư không”.

Kinh nói rất nhiều lần, “Như Lai là Đại Từ Đại Bi, Như Lai là Phật tánh”. Như thế nếu nhìn từ nền tảng Đại Từ Đại Bi, thì tất cả các pháp và chúng sanh đều lưu xuất từ Đại Từ Đại Bi Như Lai, đều là sự biểu lộ của Đại Từ Đại Bi Như Lai.

 

Để nhìn thấy sự lưu xuất, biểu lộ từ “đồng một Phật tánh” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống) như thế nào, chúng ta trích ra hai thí dụ.

Thiện nam tử! Ví như núi Tuyết có một vị thuốc tên là Dược Vị. Thuở trước có vị vua Chuyển luân vì món thuốc ấy đặt những ống tre để tiếp lấy thuốc có vị ngon ngọt ấy. Sau khi vua qua đời, thuốc lại trở nên chua, mặn, ngọt, đắng, hoặc cay, nhạt. Thuốc ấy vốn chỉ một vị, nhưng khi mang đến xứ này xứ khác, nó lại biến thành những mùi vị khác. Người thường ít phước đào bới khó nhọc cũng không thể gặp.

Thiện nam tử! Vị của Như Lai tạng sâu kín cũng như vậy, vì các rừng bụi phiền não che đậy, chúng sanh vô minh chẳng thể thấy được. Một vị thuốc thí dụ cho Phật tánh. Do các phiền não nên xuất hiện nhiều các vị khác như là địa ngục, súc sanh, quỷ đói, trời, người, nam, nữ, Sát đế lợi, Bà la môn, Tỳ xá, Thủ đà…

Phật tánh hùng mãnh không thể hư hoại nên không ai có thể giết hại được. Phật tánh như thế rốt cuộc chẳng có thể đoạn dứt, vì tánh không bao giờ có thể đoạn dứt được” (phẩm Như Lai tánh). 

Phật tánh là Dược Vị có trước, vốn hiện hữu, rồi các vị chúng sanh khác biệt mới xuất hiện sau. Bởi thế Phật tánh mới được gọi là “Tạng sâu kín”.

Phật tánh trước sau chỉ một vị, nhưng từ một vị Phật tánh ấy mà lưu xuất các loại chúng sanh là do vô minh phiền não nghiệp báobiểu lộ. Nhưng dù có vô minh phiền não nghiệp báo kiểu nào thì Phật tánh không thể hư hoại, không thể đoạn dứt được. Phật tánh vẫn hiện hữu trong tất cả các loại chúng sanh.

Thiện nam tử! Như thợ kim hoàn dùng một chất vàng tùy ý tạo ra các thứ trang sức: dây chuyền, vòng, xuyến, đeo tay, mão, ấn. Dầu các món ấy khác biệt nhau nhưng không lìa ngoài chất vàng” (phẩm Thánh Hạnh).

Tất cả mọi hình tướng, thấy bề ngoài khác nhau nhưng đồng một chất vàng. Và Phật tánh vàng có trước những xuất hiện của mọi hình tướng chúng sanhsanh tử.

Ở cả hai thí dụ cho thấy tất cả chúng sanh đều đồng một Phật tánh, đều lưu xuất, biểu lộ từ một Phật tánh, nhưng bị mê mờ, đi lạc vào những khác biệt, đó là do cái thấy mê lầm. Sự khác biệt của tất cả mọi sự vật là huyễn, là cái thấy của người vô minh.

Cái thấy huyễn hoặc này được kinh nói là “như hoa đốm giữa hư không”:

Bồ tát Ca Diếp nói: Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói: Phật tánh của chúng sanh giống như hư không. Thế nào gọi là hư không?

- Thiện nam tử! Tánh hư không chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Phật tánh cũng như vậy.

Hư không chẳng phải quá khứ. Vì sao thế? Vì không có hiện tại. Nếu có hiện tại mới có thể nói đến quá khứ. Vì không có hiện tại nên không có quá khứ. (hư không) cũng không có hiện tại. Vì sao thế? Vì không có vị lai. Nếu có vị lai mới có thể nói đến hiện tại. Vì không có vị lai nên không có hiện tại. Cũng không có vị lai. Vì sao thế? Vì không có hiện tạiquá khứ. Nếu có hiện tại, quá khứ thì có vị lai. Vì không có quá khứ, hiện tại nên không có vị lai. Do nghĩa này nên tánh của hư không chẳng phải có ba đời.

Thiện nam tử! Vì hư không là không nên không có ba đời, chẳng phải vì có mà không có ba đời. Như hoa đốm giữa hư không, chẳng phải là có nên không có ba đời. Hư không cũng như vậy, chẳng phải là có nên không có ba đời.

Thiện nam tử! Không có một vật, đó là hư không. Phật tánh cũng như vậy. Vì hư không là không nên không có ba đời. Phật tánh là thường nên không có ba đời” (phẩm Bồ tát Ca Diếp).

 

Ánh sáng

Lúc ấy, đức Thế Tôn khen ngợi Đại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Nay ông khéo biết tất cả pháp là như huyễn, như tia lửa, như thành Càn thát bà, như hình vẽ trên mặt nước, như bọt nước, như thân cây chuối, rỗng không không có thật, chẳng phải mạng, chẳng phải ngã, không có khổ vui, như chỗ thấy biết của Thập Trụ Bồ tát.

Bấy giờ giữa đại chúng bỗng nhiên trong khoảnh khắc có ánh sáng vĩ đại. Trong ánh sáng ấy, chẳng phải xanh mà thấy là xanh, chẳng phải vàng mà thấy là vàng, chẳng phải đỏ mà thấy là đỏ, chẳng phải trắng mà thấy là trắng, chẳng phải hình sắc mà thấy là hình sắc, chẳng phải phân biệt rõ ràng mà thấy là phân biệt rõ ràng, chẳng phải là cái thấy mà có cái thấy.

Bấy giờ đại chúng gặp ánh sáng ấy rồi, thân tâm khoái lạc như tỳ kheo nhập định Sư Tử Vương.

Đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: Thế Tôn, ánh sáng này nay ai phóng ra?

Bấy giờ Như Lai im lặng chẳng nói.

Bồ tát Ca Diếp lại hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi: Nhân duyên gì mà có ánh sáng này chiếu giữa đại chúng?

Ngài Văn Thù Sư Lợi im lặng chẳng đáp.

Lúc ấy Bồ tát Vô Biên Thân lại hỏi Bồ tát Ca Diếp: Nay ánh sáng này là của ai?

Bồ tát Ca Diếp im lặng chẳng nói.

Bồ tát Tịnh Trụ Vương Tử lại hỏi Bồ tát Vô Biên Thân: Nhân duyên gì mà giữa đại chúng có ánh sáng này?

Bồ tát Vô Biên Thân im lặng chẳng nói.

Năm trăm Bồ tát đều như vậy, lần lượt hỏi nhau, nhưng không ai trả lời.

Bấy giờ đức Thế Tôn hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi: Nhân duyên gì mà giữa đại chúng đây có ánh sáng này?

Văn Thù Sư Lợi nói: Bạch Thế Tôn! Ánh sáng này gọi là Trí huệ. Trí huệ chính là thường trụ. Pháp thường trụ không có nhân duyên.

Ánh sáng này gọi là Đại Niết bàn. Đại Niết bàn gọi là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên.

Ánh sáng này tức là Như Lai. Như Lai tức là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên.

Ánh sáng này gọi là Đại Từ Đại Bi. Đại từ Đại bi gọi là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên” (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu).

Khi thấy biết các pháp là như huyễn, như ảo ảnh, rỗng không không có thật thì ánh sáng xuất hiện. Lúc ấy đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Đức Phật nhân duyên có ánh sáng này, và Đức Phật im lặng không đáp. Ngài không trả lời vì ngài biết ánh sáng này không do nhân duyên, nghĩa là thường trụ, ánh sáng thường trụ tức là Phật.

Sau khi các Bồ tát hỏi nhau, nhưng không vị nào trả lời, Đức Phật hỏi lại ngài Văn Thù Sư Lợi, bậc được xem là trí huệ bậc nhất trong hàng Bồ tát. Bồ tát Văn Thù đã giải thích Ánh Sáng ấy là Trí huệ, là Đại Niết bàn, là Như Lai, là Đại từ Đại bi, tất cả những từ ngữ này theo kinh đều đồng nghĩa với Phật tánh. Trí huệ, Đại Niết bàn, Như Lai, Đại từ Đại bi hay Phật tánhthường trụ vì không do nhân duyên.

Thường trụ vì không từ nhân duyên cũng tức là tánh Không. Tánh Không và Ánh Sáng hay Phật tánh đều thường trụ vì không do nhân duyên, tánh Không và Ánh Sáng là một.

Tánh Không và Ánh Sáng là Nền tảng thường trụ, không do nhân duyên cho mọi nhân duyên xuất hiện. Và mọi nhân duyên xuất hiện thì vì do các nhân duyên tạm thời tụ hợp mà thành nên không thường trụ, “như huyễn, như ảo ảnh, như hình vẽ trên mặt nước, rỗng không không có thật…

Ánh sáng Phật tánh là nền tảng thường trụ, không do nhân duyên, cho mọi xuất hiện, và mọi xuất hiệnnhư huyễn, như ảo ảnh.

Kinh nói về ánh sáng và những xuất hiện trong ánh sáng này như sau:

Trong ánh sáng ấy, chẳng phải xanh mà thấy là xanh, chẳng phải vàng mà thấy là vàng, chẳng phải đỏ mà thấy là đỏ, chẳng phải trắng mà thấy là trắng, chẳng phải hình sắc mà thấy là hình sắc, chẳng phải phân biệt rõ ràng mà thấy là phân biệt rõ ràng, chẳng phải là cái thấy mà có cái thấy”.

Ánh sáng ấy thì Không, Vô tướng, Vô tác hay Vô nguyện (Ba giải thoát môn). Chính từ Nền tảng ánh sáng ấy mà có những cái thấy tùy theo nghiệp của chúng sanhxuất hiện, nghiệp người thấy thế giới của người, nghiệp thú vật thấy thế giới của thú vật, nghiệp chư thiên thấy thế giới của chư thiên…

Chẳng phải là cái thấy mà có cái thấy” nghĩa là tất cả những cái thấy sai khác của chúng sanh đều có từ nền tảng “chẳng phải là cái thấy”. Như thế, tất cả những cái thấy sai khác đều như huyễn.

Cái thấy hình tướng, màu sắc, hình dạng… của tất cả đều từ nền tảng ánh sáng ấy mà phóng chiếu, lưu xuất. Nói cách khác, nền tảng ánh sáng ấy đã được khúc xạ, biến hóa để thành màu sắc, hình tướng của thế giới chúng sanh tùy theo nghiệp của mỗi loài.

Thế nên chính nơi các màu sắc, hình tướng chúng ta đang thấy, chúng ta có thể tìm thấy nguồn gốc của chúng, nền tảng của chúng là ánh sáng thường trụ, không do nhân duyên. Sống được trong nền tảng ánh sáng ấy và trong những lưu xuất, biểu lộ như huyễn của ánh sáng ấy tức là sống trong Phật tánh, sống trong giải thoát.

Sống trong Phật tánh là sống trong thực tại Không, Vô tướng, Vô nguyện. Khi các hình tướng không còn che lấp cái Vô tướng vốn sẵn, thì ánh sáng của Vô tướng thấu thoát qua, ánh sáng ấy là nền tảng của mọi hiện tướng. Khi tánh Không không còn bị bao phủ bởi các hình tướng thì tánh Không biểu lộ, hiển hiện rõ ràng nơi các hình tướng như huyễn. Và Vô nguyện là không hy vọng và lo sợ, dù Niết bàn hay sanh tử.

 

Năng lực như huyễn

Ở đoạn kinh trên, phẩm Bồ tát Sư Tử Hống nói:

Tánh của Như Lai đồng như hư không, là vô trụ. Vô trụ gọi là Vô Biên Thân.

Như Laivô trụ. Vô trụ gọi là huyễn, Như Laivô trụ, Như Lai đồng huyễn.

Như Laivô trụ. Vô trụpháp giới vô biên”.

Như Laivô trụ”, vô trụ là một nghĩa của tánh Không, nên Như Laitánh Không. Nhưng tánh Không vô trụ đó không phải là một cái không có gì chết cứng, mà là một hoạt động vô biên như pháp giới vô biên, “Vô trụpháp giới vô biên”. Hoạt động của tánh Không vô trụ để hóa hiện ra pháp giới vô biên, năng lực hóa hiện ấy là năng lực như huyễn, “Vô trụ gọi là huyễn”. “Như Lai đồng huyễn nghĩa là Pháp thân tánh Không vô trụ (hay Như Lai) có năng lực hóa hiện ra pháp giới vô biên, thế nên kinh nói “Như Lai đồng huyễn”. Năng lực hóa hiện như huyễn, huyễn lực này được nói đến trong Phẩm Như Lai Thần Lực của Kinh Pháp Hoa.

Năng lực của vô trụ, của tánh Không, là năng lực của huyễn. Vô trụpháp giới vô biên, năng lực của vô trụ là huyễn, nên năng lực của pháp giới vô biên là huyễn.

Pháp giới là huyễn, các thế giới, chúng sanh, hai mươi lăm cõi không có tướng nhất định, là như huyễn.

Sắc và tướng của sắc, cả hai đều không nhất định. Các tướng của hương, vị, xúc, tướng sanh cho đến tướng vô minh, các tướng ấm, nhập, giới, hai mươi lăm cõi hữu, bốn loài sanh, cho đến tất cả các pháp cũng đều không có tướng nhất định.

Thiện nam tử! Ví như nhà huyễn thuật ở giữa đại chúng biến hóa làm hiện ra bốn loại quân binh xe, bộ, voi, ngựa; làm ra các đồ chuỗi ngọc trang sức, thành ấp, xóm làng, núi rừng, cây cối, suối, ao, sông, giếng… Trong đại chúng ấy có các trẻ con chưa đủ trí, khi thấy những sự vật ấy bèn cho là thật. Người trí trong đó biết là hư dối, do sức huyễn (huyễn lực) mà làm mê lầm mắt người” (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu).

Không có tướng nhất định vì đều do biến hóa, và biến hóanhư huyễn. Tất cả các giác quan, mắt tai mũi lưỡi thân ý và các đối tượng giác quan, tất cả hai mươi lăm cõi hữu đều như huyễn. Bồ tát thấy rõ thật tướng như huyễn ấy nên được giải thoát.

Đại Bồ tát tu Đại Niết bàn, biết và thấy pháp giới, hiểu rõ thật tướng không có tất cả tướng: Không có tướng hòa hiệp tri giác. Được tướng vô lậu, tướng vô tác, tướng như huyễn hóa, tướng gợn nắng, tướng thành Càn Thát Bà. Bồ tát thấy được những tướng như vậy thì không tham sân si, chẳng nghe chẳng thấy. Đây gọi là Đại Bồ tát an trụ thật tướng” (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu).

Chính vì an trụ trong nền tảng thật tướng mà thấy các pháp như huyễn hóa. Các pháp như huyễn hóa ấy lưu xuất, hóa hiện, phóng chiếu từ nền tảng thật tướng, từ tánh Không, từ ánh sáng thường trụ. Các pháp như huyễn hóa ấy lưu xuất từ nền tảng, và khi tan biến chúng tan biến vào nền tảng. Thế nên nơi các pháp huyễn hóa Bồ tát có thể nhìn ra được nền tảng của chúng là tánh Không - ánh sáng thường trụ, đó là nền tảng thật tướng của tất cả các pháp. Khi thấy được nền tảng, chúng ta sẽ biết thực hành, nghĩa là thấy các tướng và tưởng đều lưu xuất từ nền tảng (bản tánh của tâm) và tiêu tan lại vào trong đó.

Tánh Không - ánh sáng là thể, và mọi thế giới, chúng sanh như huyễn hóa là cái dụng như huyễn của thể thật tướng thường trụ này. An trụ trong thật tướng, Đại Bồ tát và chư Phật có thể dùng cái dụng như huyễn, “huyễn lực”, để hóa hiện ra các thứ thân để độ thoát cho chúng sanh. Sự việc này được gọi là “thị hiện”, “hiện thân”.

Thiện nam tử! Ví như người thợ vàng có vàng thật tốt làm thành các món đồ tùy theo ý mình. Cũng vậy, Như Lai ở trong hai mươi lăm cõi hữu, vì độ thoát chúng sanh khỏi dòng sanh tử, nên thị hiện các thứ sắc thân tùy ý tự tại, nên Như Lai có hiệu là Vô Biên Thân. Dù có thị hiện ra các thứ sắc thân, nhưng cũng vẫn là thường trụ, không biến đổi” (phẩm Như Lai tánh - phẩm Bồ tát).

Một cách tổng quát, khi kinh nói “Như Lai đồng huyễn” thì khi thấy huyễn bèn là thấy huyễn lực của Phật. Kinh nói tiếp, “Pháp giới vô biênNhư Lai” thì khi thấy pháp giới vô biên là sự biểu hiện của lực huyễn, khi ấy Bồ tát thấy huyễn lực toàn khắp của Phật.

 

Tóm lại, khi thấy một sự vật là tánh Không, ánh sáng và huyễn lực, khi ấy chúng ta thấy nền tảng thường trụ của thế giới, chúng sanh. Ngược lại khi thấy nền tảng Phật tánhtánh Không, ánh sáng và huyễn lực, thì tất cả những kinh nghiệm qua sáu giác quan tạo thành cái chúng ta gọi là sanh tử, trở thành những phóng chiếu của tánh Không, ánh sáng, và huyễn lực. Sanh tử là sự phóng chiếu như huyễn của tánh Không, ánh sáng và huyễn lực. Đó là ý nghĩa của phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên, trong đó có ba lời thuyết pháp cuối cùng của Đức Phật cho thế gian này.

Thấy sự lưu xuất, phóng chiếu biểu hiện của nền tảng, thì những phóng chiếu, biểu hiện ấy chính là nền tảng. Nền tảng Phật tánhtánh Không, ánh sáng và như huyễn nên sự phóng chiếu của nó, tất cả thế giới, chúng sanh, thân tâm đều là tánh Không, ánh sáng và như huyễn.

Chúng sanh tức là Phật tánh, Phật tánh tức là chúng sanh” (phẩm Bồ tát Ca Diếp).

Phật tánh như đại dương chẳng tăng chẳng giảm, vì không có biên giới, vì không thủy không chung, vì là thường trụ, vì chẳng sanh diệt, vì đều bình đẳng với tất cả chúng sanh, vì tất cả đồng một Phật tánh” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2703)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2289)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2347)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 3682)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2559)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 2703)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3067)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2142)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2255)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2559)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2792)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2624)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2384)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2389)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 2950)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2384)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2072)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2164)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2258)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2379)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2436)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2474)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 2968)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2318)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 1922)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2435)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 1856)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2546)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2693)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2699)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2456)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2282)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2566)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2201)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 2977)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
(Xem: 2400)
Trong nhiều bài kinh về pháp niệm hơi thở (MN 118, AN 10.60), Đức Phật dạy:
(Xem: 2320)
Như một cách lựa chọn để hiểu về sự đa dạng hình thái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XXI, bài viết này đề xuất một mô hình
(Xem: 2189)
Phật giáo, nhất là Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: Khế lý và Khế cơ.
(Xem: 2894)
Theo Phật giáo, cúng dường hay Cung dưỡng có nghĩa là cung cấp nuôi dưỡng hay cúng dường những thứ lễ vật như ...
(Xem: 3782)
Trong lịch sử nhân loại, Đức Phật Thích Ca là người đầu tiên đã giảng dạy những phương thức đem đến hạnh phúc cho con người và cả cho thiên giới.
(Xem: 2684)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2789)
Sinh – lão – bệnh – tử là quá trình không ai có thể tránh khỏi. Với niềm tin từ kinh sách, truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo, khi có người chết
(Xem: 2381)
Bồ đề tâmphát nguyệnthực hành Bồ tát hạnh để đạt đến giác ngộ trong mong muốn giáo hóagiải thoát chúng sanh
(Xem: 2449)
Khi đọc lịch sử Đức Phật, có lẽ độc giả đều nhận ra lý do Thái tử Tất-đạt-đa (Sidhartha) quyết chí xuất gia tìm đạo.
(Xem: 2337)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 2096)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá
(Xem: 2379)
Nếu Đức Phật có thể cứu độ tất cả chúng sinh thì sẽ không có nhiều vị Phật, chỉ một vị Phật là đủ.
(Xem: 2687)
Tôi đào thoát khỏi Tây Tạng vào ngày 31 tháng 3 năm 1959. Kể từ đó tôi sống lưu vongẤn Độ.
(Xem: 3680)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant