Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Điểm Sách:Tuệ Sỹ-Vị Thầy Của Bốn Chúng

12 Tháng Tám 202106:59(Xem: 3035)
Điểm Sách:Tuệ Sỹ-Vị Thầy Của Bốn Chúng
Điểm Sách:Tuệ Sỹ-Vị Thầy Của Bốn Chúng
tuesyvithaycuabonchung

Thông thường hằng ngày tôi có nhiều việc để hanh trì, và ngoài việc tu học tại Tổ Đình Viên Giác Hannover Đức Quốc ra, tôi hay viết sách, dịch Kinh và có thêm mấy việc khác nữa cũng tương đối quan trọng. Đó là điểm sách hay viết lời giới thiệu sách cho một tác giả nào đó sắp có sách xuất bản. Tôi rất hoan hỷ để làm việc nầy. Bởi lẽ người ta tin tưởng mình, họ mới giao cho mình đứa con tinh thần của họ để mình đọc và cho ý kiến,cũng như giới thiệu đến với quý độc giả khắp nơi. Bởi vì để tiếp cận một tác phẩm thì phải có thời gian và phải chắc rằng có ý đọc quyển đó mới mua về, nhưng đôi khi vì bận bịu nên để quên trên kệ sách, có khi 5 hay 10 năm sau mới đọc. Nếu bây giờ có người nào đó đọc xong một tác phẩmtóm tắt ngắn gọn nội dung để mình đọc thì còn gì quý hơn bằng. Dĩ nhiên những nhận định trong việc điểm sách là cái nhìn cá nhân của người đó, chứ chưa hẳn đã là quan điểm của người đọc. Tuy nhiên có kẻ sắm thuyền thì mình cứ leo lên và trước sau gì gió đưa cũng sẽ đến bến. Việc viết lời tựa hay lời giới thiệu cho một tác phẩm mới không khó, nhưng phải có thời gian để đọc qua tác phẩm đó, sau đó mới hạ bút viết lời giới thiệu. Với tôi thì việc nầy thích hợp. Lý do đơn giản là khi đọc nội dung một tác phẩm, mình sẽ hiểu được ý chính của tác giả muốn nói đến mục đích gì. Từ đó mình không cần phải viết lại một tác phẩm như thế nữa. Nghĩa là đã có người viết rồi. Bây giờ mình chỉ có trách nhiệm vun xới vườn hoa tâm linh ấy tươi tốt qua việc viết lời giới thiệu mà thôi.

 

Quý Vị biết rằng Đại Tạng Kinh của Phật Giáo có đến 250.000 trang, đọc suốt đời cũng không hết nổi, nhưng tôi đã làm quen với việc đọc Đại Tạng từ lâu rồi; nên có ai đó nhờ tôi đọc sách 100 trang hay 500 trang để viết lời giới thiệu, thì với tôi không có vấn đề. Hôm nay tôi muốn giới thiệu với quý độc giả tác phẩm “Tuệ Sỹ-Vị Thầy của bốn chúng” do Tác giả Tiến Sĩ Tâm Thường Định Bạch Xuân Phẻ ở Hoa Kỳ viết và dịch ra tiếng Anh, để dâng lên Thầy Tuệ Sỹ và gửi lại cho những thế hệ sau. Những người lớn tuổi cũng như thanh thiếu niên sinh ra tại Hải ngoại không rành Việt ngữ, thì tác phẩm nầy sẽ đáp ứng được điều đó. Sách dày 170 trang kể cả hình bìa. Do Liên Phật Hội ở Hoa Kỳ in ấn, xuất bản lần đầu năm 2017 và năm 2019 được Hương Tích Phật Việt cùng với Lotus Media xuất bản. Năm 2020 Cội Nguồn Tổ Việt Foundation tái bản tại Hoa Kỳ. Bìa và trình bày do Uyên Nguyên và Thiên Nhạn đảm trách. Tranh do Đinh Trường Chinh cung cấp.

 

Viết về Thầy Tuệ Sỹ thì đã có nhiều người làm rồi. Thiết tưởng ở đây tôi không cần ca ngợi Ngài nhiều hơn nữa. Việc ấy cũng dư thừa. Cứ nhìn vào tựa đề quyển sách là chúng ta thấy được tất cả tâm tư, tình cảm, sự quý mến của Tác giả đối với Ngài Tuệ Sỹ qua những bài của chính Thầy Tuệ Sỹ viết hay những lời thơ do Tâm Thường Định tỏ bày qua bút pháp của chính Tác giả. Đặc biệt là sau mỗi bài viết bằng chữ Việt liền ngay sau đó có bài dịch của chính Tác giả ra tiếng Anh. Xem như đây là tác phẩm song ngữ dành cho nhiều thế hệ trong cộng đồng của chúng ta. Nét đặc biệt của Tác giả là tuy sinh trước tháng 4 năm 1975 không bao lâu và năm 1991 đã sang xứ Hoa Kỳ rồi, thế mà tiếng Việt của Anh viết quá trôi chảy. Tôi không biết là Tác giả đã học tiếng Việt ở đâu, hoặc tự học? Đây là một tấm gương đáng mừng để cho các thế hệ trẻ về sau nầy nên noi theo.  Xa quê hương từ dạo 15,16 tuổi chắc chắn rằng chưa xong bậc Trung Học, khi đến Mỹ, Anh đã học xong Tú Tài, Cử nhân, Cao học và Tiến Sĩ. Do vậy tiếng Anh đối với Tác giả cũng giống như tiếng Mẹ đẻ rồi. Đồng thời Anh cũng là một Huynh trưởng của Gia Đình Phật Tử Việt Nam vùng Sacramento, thủ phủ của tiểu bang California, Hoa Kỳ và Anh cũng đã hướng dẫn con cái theo bước chân của Anh, cho chúng đi sinh hoạt trong Gia Đình Phật Tử. Việc nầy cần cổ động cho các gia đìnhtu học Phật, nên cố gắng hướng dẫn con em mình được như vậy, thì rất tốt cho tương lai của thế hệ kế thừa.

 

Trong tập sách nầy có bài “Thiên Lý Độc Hành” ở trang 47 bằng tiếng Việt và được Tác giả dịch sang tiếng Anh ở trang 51. Bài nầy có tất cả 13 đoạn do Thầy Tuệ Sỹ sáng tác và đã được Tác giả cho dịch sang tiếng Anh, kèm theo những bài của tác giả khác cũng đã dịch những vần thơ nầy ra tiếng Anh nữa. Qua đó tôi nhận thấy có lẽ khó nhất là từ “mắt biếc” không phải đơn giản để dịch được từ nầy, nếu không thâm hiểu ý của tác giả bài thơ. Tôi có duyên may là Thầy Thanh An đang làm luận án Tiến Sĩ tại Tích Lan, có gửi cho một tập“Thiên Lý Độc Hành” bằng 6 ngôn ngữ như: tiếng Việt dịch sang chữ Hán, chữ Nôm, chữ Nhật do Bùi Chí Trung dịch; tiếng Anh do Nguyễn Phước Nguyên dịch; tiếng Pháp do Dominique de Miscault dịch và có lẽ người nầy dịch từ bản tiếng Anh ra. Tác phẩm nầy có 140 trang kể cả hình ảnhthủ bút của Thầy Tuệ Sỹ, hình ảnh của Thầy Hạnh Viên đóng góp, cùng những tranh phụ bản do Đào Nguyên Dạ Thảo cung cấp. Sách nầy được in năm 2020 và đặc biệt trong quyển “Thiên Lý Độc Hành” nầy có tiểu sử của Thầy Tuệ Sỹ, tôi xin chép ra đây để quý độc giả được lãm tường.

 

Hòa Thượng “Tuệ Sỹ sinh năm 1934 tại Pakse, Lào. Xuất gia học pháp dòng Lâm Tế từ năm 1953. Năm 1960 Ngài về Việt Nam lang thang và tạm trú trong nhiều chùa tại các tỉnh miền Nam. Từ năm 1966, viết văn làm thơ đăng báo và phụ trách biên tập một vài tạp chí văn triết học thời đó. Từ năm 1969, dạy Triết học Phật GiáoĐại Học Vạn Hạnh Sài Gòn. Năm 1973, về Nha Trang tham gia thành lập Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức. Năm 1977, trở lại Sài Gòn. Năm 1978, bị bắt giam 2 năm. Năm 1984, bị bắt giam lại, 1988 bị tuyên án tử hình, một tháng sau giảm xuống 20 năm, đến năm 1998 được trả tự do. Hiện tại dành nhiều thì giờ biên dịchsáng tác; sống ở một am nhỏ trên cao nguyên Lâm Đồng, Việt Nam”.

 

Đọc tiểu sử của Hòa Thượng Tuệ Sỹ để chúng ta biết rằng Ngài là một bậc Vô Sư Trí, tự tu học, nhưng biết rất nhiều sinh ngữ như: Anh, Pháp, Đức và các cổ ngữ như: tiếng Phạn, Pali, Tây Tạng v.v… không phải ai cũng có thể làm được điều nầy. Do vậy Tác giả Tâm Thường Định cung kính dâng tác phẩm “Tuệ Sỹ-Vị Thầy của bốn chúng” lên Ngài, để tri ân nhân ngày sinh nhật của Ngài là điều đáng thể hiện vậy.

 

Xin Quý vị bỏ ra một ít thời gian để đọc tác phẩm nầy, để thấy một người Phật tử trung niên như Tâm Thường Định, đã mang được Thiền Chánh Niệm vào học đường của Hoa Kỳ và đem tinh thần của Gia Đình Phật Tử, đến với thế hệ trẻ trong tương lai được sinh ra và lớn lên tại ngoại quốc. Chỉ ngần ấy việc thôi cũng đủ để tán dương Tác giả của tác phẩm nầy rồi.

 

Viết xong vào lúc 11 giờ trưa ngày 6 tháng 8 năm 2021 tại thư phòng của Tổ Đình Viên Giác Hannover, Đức Quốc nhân mùa An Cư Kiết Hạ năm Tân Sửu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 770)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1096)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 995)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 754)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 820)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 821)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 979)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 919)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1002)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 948)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1003)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1141)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1604)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1248)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 964)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 949)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1262)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1365)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1320)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1465)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant