Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

An CưTự Tứ

26 Tháng Tám 202120:10(Xem: 3409)
An Cư Và Tự Tứ

AN CƯTỰ TỨ

Quảng Minh


Theo Dấu Chân Phật

         Theo Tứ phần luật thì nguyên nhân Phật chế định sự an cư là do nhóm sáu người gọi là lục quần Tỳ kheo thường du hành trong nhân gian, bất cứ mùa nào, nhất là vào mùa mưa, họ dẫm đạp chết vô số côn trùng. Các cư sĩ thấy thế than phiền. Đức Phật hay biết việc ấy, Ngài khiển trách nhóm lục quần Tỳ kheo và chế định từ đó trở đi, hằng năm các Tỳ kheo phải an cư ba tháng vào mùa mưa, để tránh tình trạng đi ra đạp chết cỏ, trùng và để yên tĩnh tu dưỡng thân tâm.

          An cư nghĩa đen là ở yên, Phạn ngữ là Varsa. Tăng chúng mỗi năm có một mùa ấn định một khu vực (kiết giới) cấm chỉ ra ngoài (cấm túc), dồn sức mà tham thiền học đạo. Mùa an cư khởi sự từ 16 tháng 4, kết thúc 16 tháng 7, nhưng còn chia ba thời kỳ: khởi sự 16 tháng 4 là tiền an cư, 16 tháng 5 là hậu an cư, quãng giữa là trung an cư. Đó là thuyết cựu dịch, xưa nay áp dụng. Còn thuyết tân dịch chia ra hai thời kỳ: 16 tháng 5 là tiền an cư, 16 tháng 6 là hậu an cư. Cũng có những nước tháng 12 mới an cư, ta gọi là kiết đông. Mùa an cư có 3 tháng, tức 90 ngày, nên gọi là 3 tháng an cư, hay 9 tuần an cư. Vì nằm trong mùa hạ nên gọi là hạ an cư. Mùa an cư, Ấn độ mưa nhiều, nên gọi là vũ an cư (an cư mùa mưa). Khởi sự hạ an cư gọi là kiết hạ (lập nguyện mà an cư mùa hạ) hay gọi là nhập hạ. An cư gọi là tọa hạ (hay hạ tọa), kết thúc an cư gọi là giải hạ (hạ giải hay giải chế), và quan trọng là sau đó có được một tuổi đạo nên gọi là hạ lạp.

          Mùa an cư có một ý nghĩa quan trọng là biểu hiện cho tinh thần sống chung hòa hợp của cộng đồng Tăng lữ tại một trú xứ (hòa hợp tịnh trú), thắng tiến tu học nhờ học tập, thảo luận giới phápthực hành thiền định. Nhiệm vụ các Tỳ kheo sống chung là phải giáo giới lẫn nhau, chỉ điểm và sách tấn nhau tu học. Đức Phật luôn ca ngợi đời sống trầm lặng của các Tỳ kheo, sống xa lánh những nơi ồn ào náo nhiệt. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa rằng một Tỳ kheo nên sống tách biệt ngoài cộng đồng Tăng lữ. Sống chung và hòa hợp trong cuộc sống Thánh thiện cao cả, giáo giới và sách tấn lẫn nhau, đó là sinh mạng của Tăng đoàn. Đời sống của một Tỳ kheosống không gia đình, không cố định vĩnh viễn tại một trú xứ nào (hiện tại thì Tăng chúng sống chung với nhau tại một ngôi chùa), nhưng các Tỳ kheo được kết nối nhau thành một cộng đồng thống nhất bằng giới bổn (Pratimoksa) mà họ phải cùng nhau đọc tụng trong mỗi nửa tháng. Và sự hòa hợp ấy được củng cố bằng ba tháng an cư. Trong ý nghĩa sâu xa, an cư là sinh mạng tồn tại của chánh pháp được duy trì bằng đời sống thanh tịnhhòa hợp của cộng đồng Tăng lữ. Chừng nào chúng Tỳ kheo còn nhiệt thành trong phận sự an cư ba tháng thì bấy giờ chánh pháp vẫn còn là sức sống phong phú để loài người làm nơi quy ngưỡngxây dựng một thế giới an lành.

          An cư rồi, giải hạ bằng sự tự tứ. Tự tứ (Pavāraṇā) hay tùy ý, có nghĩa tự mình đưa mình ra để tùy ý Tăng chúng chỉ điểm tội mình phạm mà sám hối. Sự chỉ điểm được căn cứ trên ba trường hợp: do được thấy, được nghe và được nghi. Lễ tự tứ cử hành ngày 16 tháng 7 (hay 16 tháng 8, theo tân dịch), một lần trong một năm sau mùa an cư.

          Tự tứ là một hình thức bố tát (Uposatha) không đọc giới bổn, nhưng nó khác bố tát ở chỗ nó không thuộc tính cách tự nguyện và tự giác sám hối như bố tát. Trong khi bố tát thuyết giới, Tỳ kheo nào nhớ lại điều mình vi phạm thì bày tỏ sám hối. Tự tứ thì mỗi người, từ vị Thượng tọa lớn nhất cho đến Tỳ kheo nhỏ nhất, phải tự mình yêu cầu Tăng chỉ điểm. Cho nên, phạm vi thuyết tội của tự tứ rộng rãi hơn thuyết giới rất nhiều. Do sự kiện này mà yết ma thuyết giớiyết ma tự tứ có khác nhau.

          Người xuất gia, sau khi thọ Tỳ kheo giới, năm nào đếm mùa an cư cũng phải an cư. Sau mỗi mùa an cư, làm lễ tự tứ rồi được kể là có một tuổi của người xuất gia. Tuổi ấy, vì sau khi kiết hạ nên gọi là hạ lạp, vì tính từ khi thọ giới Tỳ kheo nên gọi là giới lạp, và vì là tuổi theo Phật pháp, tính theo một mùa an cư chứ không phải tính theo một năm, nên còn gọi là pháp lạp. Lạp là tiếng gọi lễ cúng tất niên, là tiếng có nghĩa cuối năm (nhà Hán gọi cuối năm là lạp). Lạp lại có nghĩa là giao tiếp, giao tiếp giữa năm cũ và năm mới, như vậy, lạp là tiếng còn để gọi lễ giao thừa. Mà lễ tất niên hay lễ giao thừa của người xuất gialễ tự tứ, nên trong kinh luật lấy ngày 16 tháng 7 làm ngày đầu tuổi cho ngũ phần pháp thân của Tỳ kheo. Và chính cái tuổi giới lạp hay hạ lạp này ấn định vị thứ trong giới xuất gia, chứ không phải tuổi đời, nên vị thứ ấy gọi là lạp thứ.

          Mục đích của việc tự tứ cũng giống như của việc thuyết giới, đó là biểu hiện sự thanh tịnhhòa hợp của Tăng. Nhưng nó quan trọng hơn sự thuyết giới ở chỗ mở ra một giai đoạn mới trong cuộc sống đạo hạnh của một Tỳ kheo, sau khi chấm dứt thời hạn ba tháng sống chung giữa Tăng, đó là sư tinh tấn du hóa, đó là ý nghĩahoằng pháp thị gia vụ, lợi sinhsự nghiệp”. Trong các bộ A hàm đều kể lại sự chữa vá pháp y của Phật khi sắp hết an cư, lại kể chữa vá để chuẩn bị lên đường du hóa, lại kể Ngài lên đường du hóa ngay sau khi tự tứ thọ tuế (nhận tuổi, nhận tuổi mới).

Quảng Minh

15/8/2021

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2476)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2297)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2616)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2388)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3196)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2267)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2358)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2485)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2436)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2492)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2150)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2515)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3001)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2605)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2651)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2923)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2504)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2541)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 3997)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2750)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 2995)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3272)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2260)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2474)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2760)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2953)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2828)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2584)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2592)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3154)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2564)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2245)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2353)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2455)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2557)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2645)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2688)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3215)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2520)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2104)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2556)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2020)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2780)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2863)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2890)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2678)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2463)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2748)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2324)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 3247)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant