Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chính Giáo Và Tà Giáo!

17 Tháng Chín 202107:44(Xem: 3273)
Chính Giáo Và Tà Giáo!
CHÍNH GIÁO VÀ TÀ GIÁO!

Minh Mẫn

Cùng Nghiệp Thì Kết Duyên Với Nhau

Đã có quá nhiều bài trên các trang mạng nói đến chính giáotà giáo. Đứng góc độ nào để phân biệt chính và tà?

Trước khi đi vào vấn đề, cần có một điểm chung khi tham gia vào vấn đề phân tích. Nếu cứ mạnh ai nấy bảo lưu ý riêng, không đồng nhất điểm chung thì việc chính tà chỉ là tiếng sét của vịt nghe sấm. Vậy vấn đề đầu tiên của những người đứng trong giáo lý nhà Phật mà nhận xét, tất cả những giáo lý trong và ngoài Phật giáo y cứ trên kinh tạng nhà Phật đó là Tam Pháp Ấn (Vô thường, Vô ngã, Niết bàn) và trên pháp hành: GIỚI (Sila), ĐỊNH (Samadhi) và TUỆ (Panna). Những giáo lý không đủ yếu tố trên, được coi là tà giáo, ngoại đạo.

Nhưng như thế vẫn chưa được xem là chuẩn. Những thế kỷ mà giữa Nam truyền và Bắc truyền chưa được giao lưu văn hóa của nhau, giáo lý "Nguyên thủy" xem giáo lý "Phát triển" là ngoại đạo. Thiền xem Tịnh là Bà la môn giáo. Tịnh xem Mật của Kim Cang Thừatà đạo... mãi đến khi hành trạng được xóa nhòa ranh giới, mỗi tông môn thể hiện cách hành chứng của mình, mới đủ minh chứng tinh thần giải thoát của nhà Phật. Nghĩa là những phương tiện hành trì, do căn cơ khác nhau, chư tổ lập môn khác nhau, do tướng dị biệt, đã tạo một nhận xét bên kia giới tuyến hiểu lầm nhau. 

Ví dụ Kim Cang Thừa, so với Thiền, lễ nghihành trạng quá ư phức tạp, để rồi, đứng trên tinh thần Kinh Kim Cang: "Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thinh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai", xem lối hành lễ của Mật là âm thanh sắc tướng, vội phủ nhận tính căn bản của tông phong Mật thừa. Có đi sâu vào Kim Cang Thừa mới thấy được tính uyên thâm đi từ sự đến lý, đi từ tướng vào tính để rồi Tính Tướng viên dung. Vũ Trụ Tướng được thể hiện qua Ngũ Phương Bát Thức, nhập vào Tỳ Lô Giá Na Tạng. Hành giả hành trì miên mật qua các công đoạn được tẩy rửa nghiệp thức để khai phát tuệ giác.

Cũng thế, theo tinh thần tự giác, Phật giáo phủ nhận một thần tượng, một tha lực làm cho hành giả ỷ lại; với tính chuyên cần của một hành giả, giáo lý nhà Phật luôn khích lệ sự nỗ lực cá nhân, khác hẳn các tôn giáo thần quyền. Do vậy, Tịnh tông bị nhìn dưới cái hiểu là Thần giáo, ỷ lạivan xin một đấng giáo chủ. Do tính câu chấp chưa tìm hiểu thấu đáo mà sự ngộ nhận chia rẽ các tông phái phát sinh. Với Tín - Hạnh - Nguyện, phước huệ song tu của Tịnh tông thì không thể bảo là Bà la môn giáo, vì nó đòi hỏi hành giả nỗ lực, tinh cần hơn là van xin ỷ lại.

Nhìn hình tướng đánh giá dễ sai lệch, nhưng mấy ai, do tính bảo thủ pháp hành của mình, không chịu tìm hiểu thấu đáo bổn môn của Tông phong khác trong cùng một tín ngưỡng!

Rõ ràng, Thiền Tịnh Mật đều có đủ những yếu tố của Tam Pháp ẤnTam Vô Lậu học, nhưng hành tướng có sự dị biệt đến độ tương phản nhau.

Chính và tà trong cùng một tín ngưỡng: Nếu y cứ Tam Pháp Ấn hoặc Tam Vô Lậu học để xác định là Chính - Tà cũng chưa đủ. Ví dụ, kẻ tà tâm dùng kinh điển giáo lý nhà Phật để mưu lợi, lừa đảo… thì kinh điển được kẻ tà tâm sử dụng như thế không thể bảo là Chính: Tà nhân hành chính pháp, chính pháp thị tà pháp!

Vì vậy, ngoài cốt tủy của tinh thần giáo lý, còn tùy phương tiện sử dụngmục đích sử dụng. Ngày nay, Trung QuốcViệt Nam, phần lớn dùng kinh điển nhà Phật đi xa mục đích giải thoát, và hình tướng tu sĩ cũng bị một số lợi dụng làm hoen ố, đánh mất phẩm giá cao đẹp của hình tướng Như Lai. Thế thì, Chính và Tà còn phải đứng ở một góc độ khác tinh tế hơn để thẩm định.

Một tu sĩ chân chính, vì phương tiện độ kẻ sơ cơ, dùng ngoại pháp để độ người về với chính pháp, thì không thể xem đó là tà pháp: Chính nhân hành tà pháp, tà pháp thị chính pháp.

Dĩ nhiên phương tiện đôi khi đưa hành giả đi xa mục đích ban đầu, để gọi là dĩ huyễn độ chân, nhưng rồi chân đã bị huyễn độ trở thành mê tín như cúng sao giải hạn, đốt vàng mã...

Chính tà không cùng tín ngưỡng: Thời đức Thế Tôn hiện tiền cũng như ngày nay, bàng môn tà đạo đầy dẫy như cỏ hoang, người muốn đến với giải thoát khó mà phân biệt chính tà. Được trang bị giáo lý qua Tam Pháp ẤnTam vô Lậu học cũng chưa chắc đã khỏi bị lầm lạc vào chốn vô minh.

Thí dụ, Ngoại giáo cũng lập cứ trên tinh thần cuộc sống là cõi tạm: "sống tạm thác về". Cõi này là khổ đau, không thật, hãy lập công trạng để vinh danh... để làm đẹp lòng giáo chủ, sau khi thác, được hưởng đời đời hạnh phúc an lạc trên cao...

Và cũng có Giới luật khắc khe riêng, có pháp hành riêng, có tuệ tri riêng…

Tam Pháp Ấn đó, Tam Vô Lậu Học đó của ngoại giáo làm sao tín đồ môn phái đó được biết chính hay tà?

Những pháp thuộc tục đế như bùa thuật, Năm ông, Ngũ hành, luyện tinh binh... dễ phân biệt tà thuật; riêng những pháp như Tiên gia, Yoga, đạo thuật... cũng giúp hành giả thoát khỏi trần tục, nhưng chưa hẳn đã giải thoát luân hồi.

Trong lục đạo, từ cõi Nhân đến cõi Thiên, nếu hành giả không đủ năng lực tự giải thoát luân hồi, thì ngũ Giớithập Thiện của nhà Phật cũng giúp tín đồ giải quyết, tránh xa con đường đi xuống cảnh giới thấp. Dĩ nhiên cõi Nhân và chư Thiên có một phước báu nhất định và còn bị ràng buộc trong sinh tử luân hồi. Nếu đủ phước thì sẽ gặp Phật pháp tiếp tục tiến tu. Nếu căn cơ sâu dày thì một đời gặp minh sư dứt hẳn sinh tử.

Quan điểm của ngoại giáo vẫn là thoát tục nhưng không nói đến giải thoát, chấm dứt sinh tử luân hồi. Họ vẫn tránh xa ác pháp tội lỗi; không sát sinhgiới luật gần với đạo giải thoát. Vì thế, không thể bảo là tà giáo, mặc dù chưa đúng chính đạo hoàn toàn. Họ có khuynh hướng đi lên, nhưng khả năng giới hạn.

Một số hành giả đạt được tâm linh tương tự sự giải thoát của các hành giả Phật giáo. Trạng thái tâm thức lọt vào cảnh giới "không vô biên xứ" - "thức vô biên xứ" nhưng còn vi tế ngã vì chưa diệt sạch vi tế vô minh, có thần thông. Họ chưa nắm rõ biến trạng của ngũ ấm ma qua 50 trạng thái mà Lăng Nghiêm mô tả, vì thế bị ấm thức lạc dẫn, tự cảm nhận mình là một Phật sống, là chúa tể, là đấng sáng tạo có nhiều quyền năng... Giáo lý đúng là giáo lý giải thoát, nhưng hành trạng lại là vọng tưởng của ấm ma; chính vì thế mà bản thân đã bị lạc dẫn, những tín đồ nương tựa cũng không biết mình đang bị lưới vô minh bủa vây. Đây thật sự là chính tà khó phân.

Tóm lại, vấn đề Chính - Tà không thể y cứ vào giáo lý, vào pháp hành mà còn nhiều yếu tố tinh tế khác, yếu tố quan trọng nhất vẫn là vi tế ngã trước quần chúng. Chư Phật, chư Tổ không tự nhận mình là một giáo chủ, chứng tỏ không còn vi tế ngã. Đời sống đạm bạc thanh thoát một phần thể hiện đức giải thoát; không tích trữ, không hưởng thụ. Lời dạy không lưu dấu tục đế như chim bay qua không gian không để lại bóng hình.

Thời đại vàng thau lẫn lộn, người thiếu thiện căn khó mà phân biệt khi chỉ biết nghe và thấy những lời dạy thuận theo sở cầu, sở dục cá nhân. Thà chấp nhận pháp hành tiệm tiến Nhân đạo, Thiên đạo còn hơn là làm dân ma vĩnh viễn trầm luân.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 76)
Một ngày nọ, Phật thấy một vị tăng khóc bên ngoài lối vào Tịnh xá Jetavana Vihara (Kỳ đà tinh xá).
(Xem: 141)
Trong những ngày vừa qua, câu chuyện về một vị sư mang tên T.M.T lan truyền trên mạng xã hội với hình ảnh một vị đầu trần
(Xem: 167)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 156)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 253)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 272)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 307)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 277)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 294)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 373)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 339)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 330)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 312)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 350)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 352)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 280)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 230)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 265)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 285)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 384)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 442)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 451)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 442)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 424)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 425)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 690)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 650)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 932)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 522)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 760)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 583)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 581)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 465)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 580)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 551)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 733)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 522)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 904)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 648)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 647)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 1076)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 746)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 641)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 954)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 605)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 726)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 704)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 682)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 703)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 697)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant