Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vì Đâu Mà 'ở Hiền' Lại Không 'gặp Lành'?

12 Tháng Mười Một 202120:14(Xem: 3303)
Vì Đâu Mà 'ở Hiền' Lại Không 'gặp Lành'?

Vì Đâu Mà 'ở Hiền' Lại Không 'gặp Lành'?

Thích Tánh Tuệ

o hien gap lanh








Theo nhà Phật thì trong kiếp này, có người “ở hiền” nhưng lại không được “gặp lành”, nguyên nhân là bởi họ phải “trả” những thứ đã “vay” ở trước đó!

Vài điều có thể bạn chưa hiểu rõ về 'nghiệp báo'

Hầu hết đều tin rằng, nghiệp là nhân tố chi phối tất cả đời sống con người. Vậy sự thật ...

1. Theo thuyết nhân - quả trong nhà Phật thì “ở hiền gặp lành”, “ở ác gặp ác”, “gieo nhân nào thì gặt quả ấy”. Nhưng nhiều khi, người ta lại thấy điều trái ngược hiện diện trong cuộc sống này. Tức là, có người ăn ở rất hiền lành, suốt đời làm những việc tốt nhưng số họ lận đận, xui xẻo; ngược lại có người xấu nhưng lại thấy họ rất hay gặp may!

Với trường hợp này, không ít người đâm ra hoài nghi, hoang mang về sự công bằng, về nhân – quả trong đời! Nhưng theo nhà Phật, sự “bất công” mà người phàm nhìn thấy đấy thật ra là rất công bằng theo luật nhân - quả. Và điều này liên quan trực tiếp đến nghiệp từ tiền kiếp.

Không có nhiều người tin tưởng rằng, mình sống ở đời này nhưng đã trải qua vô lượng kiếp khác trong quá khứ. Song, đây là điều đã được đức Phật Thích Ca nhìn thấy rõ sau khi chứng đạo quả. Những nghiệp báocon người tạo ra ở những kiếp cứ chất chồng theo năm tháng và theo họ từ vô thỉ kiếp cho đến nay.

Cho nên, ở kiếp hiện tại, con người không những bị nghiệp mới tạo ra chi phối mà họ còn phải trả nghiệp duyên của những kiếp trước mà họ còn đang “nợ”.

Phật có dạy trong kinh nhân - quả rằng: Muốn biết nhân đời trước, hãy nhìn vào kết quả thọ báo hiện tại; muốn biết kết quả thọ báo của đời sau, hãy nhìn vào những tạo tác của hiện tạivì vậy.

Cũng chính vì thế mà trong kiếp này có người “ở hiền”, sống tốt đẹp nhưng chưa được quả báo tốt tức là do họ đang “trả” những thứ mà chính họ đã đi “vay” ở những kiếp trước. Và ngược lại, những người có phước dày từ kiếp trước thì kiếp này sung sướng.  Ý thức được như vậy thì ta cần cố gắng tu tập thêm để sớm chuyển hóa những nghiệp dữ quá khứ và tạo những nhân tốt đẹp cho mai sau.

2. Nhiều người bảo rằng, “số phận” đã an bài rồi thì không thể thay đổi và thế là sống với tâm thế buông xuôi tất cả. Đó là một cách nghĩ rất sai lầm, tiêu cực, làm nhiều người lần tưởng rằng đạo Phậtyếm thế.

Nghiệp là gì? 

Nhiều người tưởng tượng rằng đó là điều gì rất khủng khiếp, là do đấng một siêu nhiên nào đó giáng xuống cuộc đời mình. Nhưng chẳng mấy ai hiểu rõ được rằng, nghiệp chỉ đơn giản là một thói quen.

Thói quen này hoàn toàn do ta tự do lựa chọn và cũng có quyền tự do sửa đổi. Chẳng hạn như ngày nhỏ, ta không biết ăn ớt, khi lớn lên thì tập ăn và quen dần, đến một lúc nào đó thì trong bữa ăn, nếu không có ớt là không chịu được. Như vậy ăn ớt chỉ là một thói quen. Cũng y vậy, do những thói quen lâu ngày, chúng ta đã có những hành động xấu, lời nói xấu và ý nghĩ xấu. Điều này tạo nên những nghiệp bất thiện…

Do nghiệp đơn giản chỉ là thói quen xấu, nên ta hoàn toàn có thể cải nghiệp bằng cách sửa đổi dần những thói quen đó, từ lời nói, hành động và tâm ý của mình. Cụ thể, đó là thay đổi lời nói dối trá thành lời chân thật, lời dua nịnh thành lời ngay thẳng; chuyển đổi những hành động xấu như trộm cướp thành hành động tốt như bố thí, giúp người…

Đặc biệt nhất, chúng ta phải tập thay đổi những suy nghĩ xấu, tiêu cực thành những ý nghĩ tích cực - những thiện ý. Do ý là cái chủ động, thân và khẩu chỉ là thừa hành, cho nên khi chuyển đổi được cái chủ động thì có thể đi đến chấm dứt các nghiệp xấu.

Nếu thường xuyên thực hành những điều này thì chúng ta sẽ tạo thành những thói quen tốt, tức là ta đã chuyển đổi từ nghiệp dữ quá khứ thành nghiệp lành rồi!

3. Tuy nhiên có một điều phải nói rõ rằng, những nghiệp (thiện và ác) mà con người tạo ra trong kiếp này không phải vì nghiệp quá khứ mà mất đi; mà đến một lúc nào đó nhân duyên hội tụ đủ đầy, thì nghiệp đó sẽ chuyển thành quả.

Trong kinh Pháp Cú, đức Phật Bổn Sư cũng nói rất rõ điều này qua các bài kệ rằng:

"Người gieo thiện, quả lành chưa có. 
Chính là do giờ trổ còn xa. 
Đủ duyên, cây thiện trổ hoa. 
Ở hiền gặt phúc hẳn là lý chân” 
(Pháp Cú số 120).

“Kẻ làm ác quả sầu chưa trổ. 
Chẳng phải do nhân quả không thiêng. 
Đến khi quả xấu kề bên.
Ác thời gặp ác, khổ phiền ngày đêm” 
(Pháp Cú 119).

Như vậy, khi đủ duyên thì người ở hiền sẽ gặp lành, ở ác tức sẽ gặp ác không hề sai lệch! Chẳng phải, các bậc tiền bối tổ sư đã nói:“Dù cho trăm nghìn kiếp, nghiệp đã tạo cũng không mất. Đến lúc nhân duyên gặp gỡ nhau thì trở lại nhận lãnh quả báo” đó sao!? 

Namo Buddhaya

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 784)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 751)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 767)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 743)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 794)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 955)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 993)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 749)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 759)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1289)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1169)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1152)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1033)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1125)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1238)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1206)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1173)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1156)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1744)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1145)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1175)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1287)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1172)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant