Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Xuất Gia Trong Luật Tạng Pali Và Luật Tứ Phần

16 Tháng Mười Hai 202120:01(Xem: 2732)
Pháp Xuất Gia Trong Luật Tạng Pali Và Luật Tứ Phần
Pháp Xuất Gia Trong Luật Tạng Pali Và Luật Tứ Phần 

Thích Nữ Liên Liên

loi-phat-day-2


Khi Đức Phật còn hiện hữu cõi Ta-bà, chúng đệ tử xuất gia sống thanh tịnh, hòa hợp thành một thể thống nhất, cùng nhau sinh hoạt, cùng nhau tu học trong môi trường phạm hạnh; tất cả đều tự giác tuân thủ hành trì theo giáo pháp và những nội quy do Ngài đề ra. Tuy nhiên, sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, hội chúng Tăng đoàn bắt đầu có sự mâu thuẫn, chống đối, bất hòa với nhau. Qua thời gian, trong hệ thống Tăng đoàn bắt đầu có sự phân chia giáo phái. Các giáo phái đều tuân thủ theo những gì Đức Phật đã định nhưng cũng tồn tại một số dị biệt giữa họ do lập trường tư tưởng, quan điểm khác nhau. Trong số các bộ phái ấy có Theravāda và Dharmaguptaka. Hai bộ phái này có hai bộ luật riêng. Theravāda có bộ luật Pāli còn Dharmaguptaka có bộ luật Tứ phần. Ở bài viết này, người viết dựa vào vào hai bộ luật vừa nêu để so sánh phương thức xuất gia giữa hai bộ luật của hai truyền thống Phật giáo, xem xét những điểm tương đồng và dị biệt được nêu ra trong đó.

Điểm tương đồng

- Đối với bậc Vô lậu

Thời Đức Phật còn tại thế có nhiều vị Thánh tăng xuất hiện. Và đối với những bậc thiện căn thiện trí, chỉ qua một vài lần nghe pháp được Đức Thế Tôn thuyết giảng, họ có thể giác ngộ, chứng đắc Thánh quả. Với những bậc này, Đức Thế Tôn chỉ đơn giản nói lời xác nhận sự xuất gia của họ. Điểm này có sự tương đồng giữa luật Tứ phần và Luật tạng Pāli.

Với Luật tạng Pāli, câu nói xác quyết “Này các Tỷ-kheo, hãy đến. Pháp đã khéo được thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau”1 có mặt khắp trong bộ luật. Trong Tứ phần luật, Đức Phật dạy: “Hãy đến đây, Tỷ-kheo! Hãy ở trong pháp của Ta, tự chứng nghiệm, tu Phạm hạnh, để đoạn tận nguồn khổ”.2Khi Đức Phật cất lên lời này, vị thiện nam dứt sạch các trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh, thấy pháp, đắc pháp, thành tựu các pháp, tự thân đạt được quả chứng, phát tâm xuất gia, muốn tu Phạm hạnh trong giáo pháp của Đức Như Lai. Ngoài ra, câu nói ấy còn là sự xác quyết vị Tỷ-kheo kia đã được thọ giới Cụ túc. Ở đây chúng ta thấy rằng, quá trình xuất gia tu họcthọ giới Cụ túc (tu lên bậc trên - theo cách diễn đạt của Luật tạng Pāli) của các vị này hầu như diễn ra trong cùng một lúc. Trước đó còn đang là một vị thiện nam nhưng sau khi nghe lời thuyết giảng từ Đức Phật, tức thì giác ngộtrở thành một Tỷ-kheo như pháp, đắc Thánh quả sau khi Đức Thế Tôn xác quyết bằng câu nói trên.

Nói cách khác, vào thời Đức Phật tại thế, khi Ngài xác quyết, khuyến tấn một vị xuất gia (như trên đã trình bày) là đồng nghĩa vị ấy đã liễu sinh thoát tử, chứng đắc Thánh quả. Thọ giới Cụ túc chính là vị ấy đã là Thánh tăng. Đây là điểm khác biệt rõ ràng giữa xuất gia - thọ giới của các bậc Vô họcphàm phu Tăng.

- Độ phàm tăng xuất gia

Sau khi Tăng bảo hình thành kể từ lúc Tăng đoàn được thành lập, lúc ấy nhiều người ở nhiều xứ sở khác nhau muốn xuất gia đã theo các Tỷ-kheo đến xin Đức Thế Tôn cho phép được xuất gia. Như thế, dù ở bất cứ địa phương nào, nếu muốn xuất gia thì những vị này phải đến nơi Đức Phật đang cư trú. Đức Phật nhận thấy “Trong trường hợp ấy, chính các vị Tỷ-kheo, luôn cả những người có ý muốn xuất gia đều mệt nhọc”3 nên Ngài cho phép từ đó về sau, các Tỷ-kheo ở mọi trú xứ, mọi địa phương, khi có người khởi tâm muốn xuất gia thì chính các vị Tỷ-kheo ấy được phép làm lễ xuất gia cho họ. Pháp xuất gia được Đức Phật dạy như sau:

Trước tiên, nên cho cạo bỏ râu tóc, cho choàng lên các tấm vải màu hoại sắc, cho đắp thượng y một bên vai, bảo đảnh lễ ở chân các vị Tỷ-kheo, bảo ngồi chồm hổm, bảo chắp tay lên, và nên bảo rằng: “Ngươi hãy nói như vầy: Tôi đi đến Đức Phật là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Phật). Tôi đi đến giáo pháp là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Pháp). Tôi đi đến với hội chúng là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Tăng).” (Lần thứ hai và thứ ba đều đọc như vậy).4

Và theo Tứ phần luật, Đức Phật đã dạy người phát tâm xuất gia phải như sau: “…Như pháp sau đây: Cho cạo tóc, dạy mặc ca-sa, để trống vai bên hữu, cởi bỏ dép, đầu gối bên hữu chấm đất, chắp tay thưa: ‘Con là… quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng Tỷ-kheo. Con ở trong pháp của Như Lai xuất gia học đạo. Đức Như Lai là bậc Chí chân, Đẳng Chánh giác của con!’”.5 (Lần thứ hai và thứ ba đều đọc như vậy).

Như vậy ở điểm này, về cơ bản cả Tứ phần luật lẫn Luật tạng Pāli đều tương đồng nhau. Hay nói cách khác, ở cả hai bộ luật này, một người muốn xuất gia trước hết phải cạo sạch râu tóc, mặc áo ca-sa, đến trước đại chúng ba lần đọc lời phát nguyện nương tựa vào ba ngôi báu. Đó là pháp xuất gia cơ bản.

Bên cạnh đó, khi Đức Thế Tôn ngự tại thành Kapilavatthu, ở tu viện Nigrodha, vào buổi sáng, Ngài đã mặc y, cầm bát vào cung điện của vua Tịnh Phạn (Suddhodana). Mẹ của Rāhula bảo con mình đến xin phần thừa kế từ Đức Thế Tôn và Rāhula đã làm theo lời mẹ mình chỉ dạy. Khi ấy Đức Phật đã dạy Tôn giả Xá-lợi-phất (Sāriputta) làm pháp xuất gia cho hoàng tử Rāhula. Và cũng từ việc độ Rāhula xuất gia, Đức Phật quy định người muốn xuất gia phải có sự đồng ý của cha mẹ, nếu khôngcha mẹ thì phải có sự đồng thuận từ người bảo hộ. Đây cũng là điểm giống nhau thứ hai giữa cả hai truyền thống luật.

Ngoài ra Đức Phật còn quy định rằng người bị khuyết tật, thiếu căn, hay kẻ tội đồ bị truy nã… đều không được xuất gia, nhằm tránh việc người không có tín tâm sinh lòng bất kính đối với Tam bảo. Đây là điểm tương đồng thứ ba giữa hai hệ thống luật về việc xuất gia. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại vài điều dị biệt giữa hai bộ phái này.

Điểm dị biệt

Chúng ta có thể tóm tắt các điểm dị biệt của hai truyền thống luật ở bảng sau:

Nhận xétTứ phần luật có phần khai thoáng hơn, có thể cho phép người khác xuất gia dù không đủ Tăng, chỉ cần đến từng phòng rồi thưa cho các vị ấy biết có người xuất gia là được. Trong khi với Luật tạng Pāli, muốn độ người xuất gia thì nhất thiết phải tác pháp giữa đại chúng rồi mới được làm lễ xuất gia.

Như vậy, pháp xuất gia được Đức Phật chỉ dạy rất đơn giản. Điều tiên quyết nhất vẫn là phải phát tâm quy y, xin trở về nương tựa vào Đức Phật, giáo phápTăng chúng (Phật - Pháp - Tăng). Người khởi tâm muốn vào cửa đạo, sống đời cắt ái ly gia thoát tục phải có niềm tin sâu sắc và tôn kính đối với Tam bảo; cơ thể lành lặn, đầy đủ các căn; không phải là người mang tội bị lệnh truy nã, và quan trọng phải có sự chấp thuận của cha mẹ hoặc người bảo hộ, được như vậy mới độ cho họ thế phát xuất gia tu họcthọ giới lên bậc trên.

Tựu trung lại, xuất gia dù ở thời đại nào, không gianthời gian nào đều là việc làm từ chính sự phát tâm với tâm nguyện hoài bão muốn trở về tu học trong giáo lý của Phật-đà, bước đầu đặt chân trên đạo lộ tiến về giác ngộ, giải thoát. Người phát tâm xuất gia là đã xác định hướng đi cho chính mình ở hiện tại và tương lai gần, chấp nhận mọi thử thách trên bước đường mình đã chọn. Từ đó, tâm thái và oai nghi được hình thành, nương tu tập thọ trì giới pháp mà trở nên oai nghi, giới đức tỏa sáng, cảm hóa người cùng huân tu.

Thích Nữ Liên Liên/ Nguyệt san Giác Ngộ

_________________________________

(1) Xem Đại phẩm, tập 1, chương Trọng yếu, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017.

(2) Xem Luật Tứ phần, tập 3, chương Thọ giới, HT.Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013.

(3) Đại phẩm, tập 1, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.37.

(4) Sđd., tr.38, 39, 160, 161.

(5) Luật Tứ phần, tập 3, HT.Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013, tr.1223.

(6) Xem Đại phẩm, tập 1, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.176-178.

(7) Xem Luật Tứ phần, tập 3, Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013, tr.1213-1220.

(8) Đại phẩm, tập 1, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.153.

(9) Sđd., tr.1228.

(10) Luật Tứ phần, tập 3, HT.Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013, tr.1225.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1284)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1353)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1186)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1298)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1207)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1187)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1267)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1182)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1343)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1576)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1299)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1573)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1213)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1122)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1341)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1209)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1284)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1400)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1622)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1585)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1444)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1626)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1339)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1305)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 1831)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1401)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1340)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1321)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1272)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1360)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1233)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1441)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1478)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1338)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 1334)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1205)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1620)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1362)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1154)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1446)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1871)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1689)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1086)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1251)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1318)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1544)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1305)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1151)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1293)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant