Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vọng Tưởng (papañca) – Tiến Trình Nhận Thức Làm Ô Nhiễm Tâm Và Phương Pháp Diệt Trừ Trong Kinh Mật Hoàn

30 Tháng Mười Hai 202117:57(Xem: 3527)
Vọng Tưởng (papañca) – Tiến Trình Nhận Thức Làm Ô Nhiễm Tâm Và Phương Pháp Diệt Trừ Trong Kinh Mật Hoàn
Vọng Tưởng (papañca) – Tiến Trình Nhận Thức
Làm Ô Nhiễm Tâm Và Phương Pháp Diệt Trừ Trong Kinh Mật Hoàn 


Thích Nữ
Hạnh Liên


Chết Và Tái Sinh

Trong xã hội hiện nay, chúng ta đề cao tinh thần nhập thế, đem đạo vào đời. Vậy làm thế nào để Phật sự mãi thăng tiến, tỏa sáng, ma sự ngày càng tiêu trừ. Vọng niệm/vọng tưởng (papañca) – tiến trình nhận thức làm tâm ô nhiễmphương pháp diệt trừ trong Kinh Mật Hoàn sẽ giúp chúng ta làm rõ vấn đề này.

KHAI NIỆM Papañca

Papañca được xuất hiện với nhiều hình thức khác nhau, nếu xét theo thực nghĩa, chúng không có nghĩa là vọng tưởng, vọng niệm như những chú thích đã nêu, mà có nghĩa là chướng ngại, trễ nải và lầm lạc, chứ không phải dựa trên vọng và chơn. Nhưng trong “Kinh Mật Hoàn” số 18 thuộc Trung Bộ Kinh, nó đứng cùng một nhóm từ “papañcasaññāsankhā”, vậy nó có nghĩa thế nào?

“Papañcasaññāsankhā” bằng với “papañca” kết hợp với “saññā” và “sankhā”. Trong đó, “papañca” có nghĩa như vừa nêu trên; “saññā” có nghĩa là tưởng, nó nằm trong năm tiến trình của tưởng uẩn, được gọi là các hiểu biết, tri giác và được xem là trở ngại sự trong sáng của tâm; “sankhā” có nghĩa là cái gọi là hay được xem là. Vậy “papañcasaññāsankhā” trong Kinh Mật Hoàn có nghĩa là cái được xem là sự trở ngại về sự tiến hóa của tinh thần (tâm linh) hay nói khác hơn, nó được xem là vọng tưởng hay vọng niệm. Vậy tiến trình nhận thức làm ô nhiễm tâm của vọng tưởng/vọng niệm như thế nào và phương pháp đoạn trừ của nó ra sao mà nó lại tác động lớn đến đời sống tu tập của một người?

Trước khi tìm hiểu vấn đề này, chúng ta cùng tìm hiểu tùy miên là gì và vì sao Đức Phật lại nói đoạn tận tùy miên trước. Tùy miên là tên gọi khác của phiền não, là nguyên nhân cảm sinh ra thế giới mê và vọng, là gốc của sự tái sinh. Theo Kinh Mật Hoàn, nó được chia làm sáu loại: Tham, sân, kiến, nghi, mạn, vô minh tùy miên và nó chỉ xuất hiện khi có điều kiện tác động lên nó:  “Này Tỳ-kheo, do bất cứ nhân duyên gì, một số hý luận vọng tưởng (papañcasaññāsankhā) ám ảnh một người. Nếu ở đây không có gì đáng tùy hỷ, đáng đón mừng, đáng chấp thủ, thời như vậy là sự đoạn tận tham tùy miên… sân tùy miên… kiến tùy miên… nghi tùy miên… mạn tùy miên… sở hữu tham tùy miên… vô minh tùy miên, sự đoạn tận chấp trượng, chấp kiếm, đấu tranh, tránh tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ. Chính ở đây, những ác, bất thiện pháp này đều được tiêu diệt, không còn dư tàn” [1].

TIẾN TRÌNH CỦA VỌNG TƯỞNG

Vậy tiến trình vận hành của papañca là quá trình do bất cứ duyên gì (tức sáu căn tiếp xúc với sáu trần), chúng ta tùy hỷ, chào đón, chấp thủ nó thì hý luận vọng tưởng, nó sẽ sanh khởi, sáu loại tùy miên, chấp trượng, đấu tranh, kháng tranh, vọng ngữ, các pháp thiện hay ác cũng theo đây sẽ sanh khởi, và làm ám ảnh một người. Ví dụ như mắt thấy sắc vừa ý thì tham khởi lên (tham tùy miên), tai nghe tiếng không vừa ý thì sân khởi lên (sân tùy miên)… và các pháp thiện hay ác, nó chỉ xuất hiện khi có điều kiện tác động, nó mới sanh khởi. Khi nó chưa sanh khởi hay không có điều kiện tác động, nó chỉ là ngủ ngầm hay tùy miên ngủ ngầm. Ngược lại, khi căn gặp trần, chúng ta không quan tâm, không chào đón, không bị nó chi phối thì tất cả những phiền trược, rối rắm phức tạp của cuộc sống sẽ chấm dứt và đây cũng là cách điều phục papañca của Đức Phật.

Do các Tỳ-kheo không hiểu ý của Đức Phật nên đã tìm đến Tôn giả Mahākaccāna để hỏi. Tôn giả giải thích thêm: “Chư Hiền, do nhân con mắt và các sắc pháp, nhãn thức khởi lên. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc nên có các cảm thọ. Những gì có cảm thọ thời có tưởng. Những gì có tưởng thời có suy tầm. Những gì có suy tầm thời có hý luận. Do hý luận ấy làm nhơn, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một người, đối với các pháp do ý thức nhận thức, quá khứ, tương lai và hiện tại” [2].

Tai, mũi, lưỡi, thân, ý lộ trình cũng tương tự như vậy. Đây là tiến trình sáu căn tiếp xúc với sáu trần làm cho một người bị vọng tưởng bởi quá khứ, hiện tại, vị lai. Hay nói một cách dễ hiểu, một vấn đề muốn sanh khởi phải hội tụ ba yếu tố: Mắt, có đối tượng để nhìn thấy và có nhãn thức (cái biết của con mắt đối với đối tượng). Ba yếu tố này hợp lại mới có xúc (cảm xúc), có xúc mới có thọ (vừa lòng, khổ hay vui), do có thọ nên tưởng mới có mặt, do có tưởng nên mới có suy tầm, từ suy tầm mới sanh khởi hý luận vọng tưởng và đây là sự liên tục về mối tương quan của papañca trong quá khứ, hiện tạivị lai. Vậy có thể kết luận: Tất cả những thứ ấy, chúng cũng đồng khởi lên và tồn tại song hành, hoặc chúng xuất hiện sau nhưng trong khoảng sát na mà thôi và hý luận vọng tưởng có từ trong tâm của mỗi người chứ không phải nói ra mới có hý luận vọng tưởng. Vì khi tưởng khởi tức những niệm giải mới xuất hiện. Cũng vậy, nếu ba yếu tố ấy không gặp nhau thì chúng chỉ là chúng, chứ không phải là vọng tưởng. Ví dụ, ba đường thẳng phải giao nhau tại một điểm bất kỳ nào đó thì chúng mới cắt nhau, nếu không giao nhau thì chúng chỉ là ba đường thẳng riêng biệt.

Vọng tưởng thật ra chỉ là phản ánh thật tướng. Vì không có thật nên gọi là vọng và do phân biệt sai lầm mà có sự chấp giữ các tướng ở thế gian, nên được gọi là tưởng. Vì vậy, bản chất của nó chỉ là những khái niệm gợi ý, cái hướng về hay một phần của sự thật dưới góc nhìn chủ quan của mỗi người lưu trữ nó. Ví dụ, lần thứ nhất, người A gặp người B bàn luận một vấn đề gì đó, có một số điểm chưa đồng ý. Lần thứ hai, chưa biết cuộc bàn luận như thế nào và đi về đâu nhưng trong suy nghĩ người A đã ghi nhớ những nhận thức hay cái biết trong cuộc gặp lần trước, góp phần khiến cuộc bàn luận trở nên không thuận lợi.

Trong một ngày, chúng tavô số những loại tưởng như vậy, cứ ứng xử và sống trong thế giới của tưởng mang tính chủ quan đó. Vì vậy, vọng tưởng trong trường hợp ngài Mahākaccāna nói đó là niệm khởi khi đủ các duyên để hình thành, tức vọng niệm. Từ một niệm khởi bởi sự tương tác trên, nó hình thành nên những quan điểm, khái niệm và có mối liên hệ mật thiết đến tùy miên. Ví như, yêu thích – tham tùy miên khởi lên, ghét – sân tùy miên khởi lên…

Tóm lại, vọng tưởng là cái gì? Bất cứ cái gì khởi lên làm mất sự sáng suốt, thanh tịnh của tâm, cái đó gọi là “papañcasaññāsankhā” (vọng tưởng/vọng niệm). Vì khi một niệm khởi lên, nếu chúng ta không nhận ra lập tức nó sẽ cuốn chúng ta vào dòng chảy của thị phi, dẫn đến đánh mất sự thanh tịnhtrong sáng, mọi phiền não phức tạp (tham, sân, si… vô minh tùy miên) sẽ tham gia vào trong cuộc sống của chính mình.

TIÊU TRỪ VỌNG TƯỞNG

Vậy muốn an lạc, thanh tịnh, chúng ta phải làm thế nào? Vì sao mà vọng tưởng lại khó điều phục như vậy? Phương pháp đoạn trừ nó ra sao? Sau đây là một số phương pháp để đoạn trừ:

Thứ nhất, chúng ta phải có đời sống an lạc, tỉnh giác, tinh cầnchánh niệm. Trong Kinh Pháp Cú, kệ số 1 và 2, Đức Phật dạy: “Ý dẫn đầu các pháp/ ý làm chủ, ý tạo” [3]. Vì thế, việc làm chủ ý niệm là vô cùng quan trọng, vì khi mọi ý niệm khởi lên do tương tác giữa các yếu tố của giác quan với đối tượng, cái biết, cũng như sau đó là xúc, thọ thì tưởng vừa sanh khởi. Chúng ta nhận ra bản chất của nó, không nuôi dưỡngchạy theo, nó sẽ không có đủ duyên hoặc cơ hội để hiện khởi và chi phối chúng ta. Có nhiều cách để giữ chánh niệm như thực tập thiền Chỉ – Quán, thiền Minh Sát hay niệm Phật… tùy theo trình độcăn cơ của mỗi người. Tuy nhiên, trước khi thực tập những cái lớn, chúng ta nên bắt đầu làm chủ ý niệm từ những oai nghi nhỏ nhất, ý tứ trách nhiệm, khi làm biết ta đang làm, khi nói biết ta đang nói… để bổ trợ cho lộ trình trên.

Thứ hai, do vì tướng vọng tưởngkhông thật, chỉ nương vào duyên mới sanh khởi và rất vi tế nên rất khó đoạn trừ. Trong Kim Cang Giảng Giải của Hòa thượng Thanh Từ cho rằng: “Tướng chúng sanh là tướng thấy tất cả loài là có thật” [4]. Thế nên, nếu là phàm phu khi mắt thấy đất liền khởi tưởng cứng, thấy lửa liền khởi tưởng nóng; tai nghe nói me liền khởi tưởng chua… nhưng không biết tất cả những thứ ấy do chấp thủ tướngsinh khởi. Vì vậy, muốn đoạn trừ, chúng ta cần phải loại bỏ những tạp khí (tham, sân, si… ) ô nhiễm trong tâm; một môi trường trong sạch để thực hành và phải có một giáo dục thiền môn vì khi bất thiện pháp yếu đi thì thiện pháp sẽ tăng dần. Tất cả đều do huân tập chấp thủ mà có, nên khi không huân tập nữa, nó sẽ tự biến mất. Vì thế, phép quán tất cả pháp đều vô thường, khổ, vô ngãphương pháp hữu hiệu để loại trừ chúng và chuyển hóa khổ đau.

Thứ ba, chúng ta đoạn trừ bằng cách quán nhân quả. Trong Kinh Tập, Đức Phật dạy rằng:

“Bần tiện không vì sanh,

Phạm chí không vì sanh,

Do hành, thành bần tiện,

Do hành, thành phạm chí” [5].

Trong Kinh Madhura, một lần nữa Tôn giả Mahākaccāna khẳng định ý nghĩa của giai cấp: Phục vụ người khác theo yêu cầu, chẳng qua chỉ là quyền lực kinh tế; không liên hệ tới giai cấp xã hội. [6].

Điều này chứng tỏ: Bất cứ cái gì mình gieo vào trong tâm, nó chắc chắn sẽ có sự trả giá và khi có xúc – thọ tức có cái sanh ra khổ đau. Nó phụ thuộc vào những nhân quả chúng ta gây tạo chứ không liên quan đến giai cấp trong xã hội. Vì vậy, việc điều phục cảm xúc bằng phương pháp quán nhân quả khá cần thiết. Nó giúp chúng ta dừng lại mọi ý niệm bất thiện. Nếu lúc ngồi thiền vọng tưởng sanh khởi nhiều, chúng ta nên nhận diện nó và đặt tâm trên tướng sanh diệt để lấy lại năng lượng. Nếu vẫn không điều phục được nó, ta nên dừng lại các tưởng ở chỗ biết. Vì khi một niệm khởi lên, chúng ta biết nó đang khởi, thì vọng tưởng lập tức sẽ dừng.

Nói chung, tất cả phương pháp trên cuối cùng vẫn gặp nhau ở một điểm là phải có chánh định. Để có định, trước tiên chúng ta cần phải giữ giới, vì giới là hàng rào bảo vệ và nhổ sạch cỏ dại trong tâm. Hay nói cách khác, giới là giá trị đạo đức. Nó là nhân ban đầu để chuyển hóa bùn thành sen thơm. Bởi do giới sẽ sanh định và do định sẽ sanh tuệ. Có trí tuệ, chúng ta sẽ có đủ nhận thức (chánh kiến) để nhìn rõ tướng của vọng tưởngbiết mình đang làm gì, ở đâu, hỷ lạc sẽ đến và đau khổ sẽ đoạn trừ. Vì khi có nhận thức đúng sẽ dẫn đến hành động đúng; khi nó đã thuần thì thiện và ác cũng sẽ không còn, vọng tưởng cũng không nương vào đâu mà sanh khởi. Bởi bản chất của vọng tưởng là luôn có đối tượng hướng đến, phụ thuộc vào duyên sinh và không thể tồn tại khi nó ở một mình, vì “phàm hễ có tướng  đều là hư vọng” [7].

Muốn diệt được vọng tưởng, ta phải hiểu vọng tưởng là gì? Ta biết tu thiềndiệt trừ bản ngã, không chấp cái ta. Nếu nói người cầm gươm để diệt trừ bản ngã thì người cầm gươm chính là ngã, bởi khi ta diệt vọng tưởng thì ta chính là vọng tưởng, lấy vọng tưởng để diệt vọng tưởng thì không bao giờ hết. Lục tổ Huệ Năng có dạy:

“Nào dè tánh mình vốn tự thanh tịnh,

Nào dè tánh mình vốn chẳng sanh diệt,

Nào dè tánh mình vốn tự đầy đủ,

Nào dè tánh mình vốn chẳng lay động” [8].

Vốn dĩ, trong tự tánh giác của mỗi người hằng thanh khiết, không bị nhiễm ô nhưng vì do vô minh, vọng tưởng đảo điên… nên chấp vọng cho là chơn, chấp giả cho là thật. Vì vậy, diệt mà không diệt thì đó mới là diệt vọng tưởng. Khi đã diệt được vọng tưởng đồng nghĩa với tạp khí diệt và đau khổ sẽ chấm dứt, an lạcNiết bàn cũng ở tại nhân gian, giống như từ sình lầy hôi tanh nay đã trở thành phù sa màu mỡ và hãy luôn nhớ rằng: Sự thành công luôn bắt đầu từ sự trả giá.

 

Chú thích:

[1] Thích Minh Châu (dịch), Trung Bộ Kinh I, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2018, tr.148-149.

[2] Sđd, tr.150-151.

[3] Thích Minh Châu (dịch), Tiểu Bộ Kinh I, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2018, tr. 41.

[4] Thích Thanh Từ, Kinh Kim Cang Giảng Giải, Nxb. Tôn Giáo, 2019, tr.25.

[5] Thích Minh Châu (dịch), Tiểu Bộ Kinh I, Nxb. Tôn Giáo, 2017, tr.239.

[6] Thích Minh Châu (dịch), Trung Bộ Kinh II, Nxb. Tôn Giáo, 2018, tr. 112.

[7] Thích nữ Giới Hương, Pháp Ngữ Trong Kinh Kim Cang, Nxb. Tôn Giáo, 2016, tr.63.

[8] Hòa Thượng Tuyên Hóa (dịch), Lục Tổ Đàn Kinh, Nxb. Tôn Giáo, 2013, tr.99.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Thích Minh Châu (dịch), Trung Bộ Kinh I, Trung bộ Kinh II, Nxb. Tôn Giáo, 2018.

2. Thích Minh Châu (dịch), Tiểu Bộ Kinh I, Trung bộ Kinh II, Nxb. Tôn Giáo, 2018.

3. Thích Minh Châu (dịch), Tiểu Bộ Kinh I, Nxb. Tôn Giáo, 2017.

4. Thích nữ Giới Hương, Pháp Ngữ Trong Kinh Kim Cang, Nxb. Tôn Giáo, 2016.

5. Hòa Thượng Tuyên Hóa (dịch), Lục Tổ Đàn Kinh, Nxb. Tôn Giáo, 2013.

6. Thích Thanh Từ, Kinh Kim Cang Giảng Giải, Nxb. Tôn Giáo, 2019.

(Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo Số 379 Chủ Đề: An Trú Trong Hiện Tại)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 53)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 46)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 65)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 88)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 173)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 202)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 215)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 195)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 223)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 262)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 233)
Chết an lành là mong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 229)
Pháp giới là vũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 430)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 256)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 368)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 298)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 287)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 265)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 375)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 374)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 490)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 360)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 626)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 393)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 424)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 583)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 492)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 413)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 719)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 459)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 519)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 461)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 461)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 479)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 481)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 410)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 536)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 874)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 899)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 736)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1084)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 550)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 516)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 596)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 617)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 593)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 588)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 755)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 653)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 796)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant