Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mùa Xuân Vạn Thụ Khai Hoa

01 Tháng Hai 202219:52(Xem: 2373)
Mùa Xuân Vạn Thụ Khai Hoa
Mùa Xuân Vạn Thụ Khai Hoa


Nguyễn Thế Đăng


hoa mai

Sau khi Đức Phật giác ngộ, Phạm thiên Sahampati thỉnh cầu ngài thuyết pháp, ngài đã nói như sau: 

Này các Tỳ kheo, sau khi Phạm thiên thỉnh cầu, vì lòng từ bi với chúng sanh, với Phật nhãn ta nhìn quanh thế giới. Với Phật nhãn ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn; có hạng tánh thiện, tánh ác; có hạng dễ dạy, khó dạy; và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm khi làm những hành động lỗi lầm

Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng hay hồ sen trắng, có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, sống vươn lên tới mặt nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước làm ướt. Cũng vậy, với Phật nhãn, ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời; có hạng lợi căn, độn căn; có hạng tánh thiện, tánh ác; có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác, và sự nguy hiểm khi làm những hành động lỗi lầm. Và này các Tỳ kheo, Ta nói lên bài kệ sau đây với Phạm thiên Sahampati:

Cửa bất tử rộng mở

Cho những ai biết nghe 

Hãy để họ bày tỏ 

Sự xác tín của mình… 

(Kinh Thánh Cầu, Kinh Trung Bộ). 

 

Đức Phật thấy chúng sanh là những hoa sen, còn sát với bùn, trong nước, còn ở trong nước hay đã vươn lên khỏi mặt nước. Hoa sen đã được ví với con người trong rất nhiều kinh. Hoa sen để chỉ thực tại con người. Kinh Đại Bát Niết Bàn gọi hoa sen ấy là Phật tánh, gồm trí huệtừ bi. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói rằng hoa sen thực tại con người gồm trí huệtừ bi

Thấy mỗi người là một hoa sen, đó là cái thấy của trí huệtừ bi, đó là cái thấy thực hành theo cái thấy của mắt Phật, Phật nhãn

Trong truyền thống Thiền tông, Đức Phật có lần cầm hoa sen đưa lên giữa đại chúng, chỉ có ngài Ca Diếp mỉm cười. Đức Phật đã nói, “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, nay phó chúc cho ông”. 

 

Trong cái nhìn con ngườithực tại hoa sen này, Thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726) đã viết nhiều về chủ đề ấy trong Thiền Tông Bản Hạnh đồng thời gởi gắm bao nhiêu hy vọng vào những đời sauPhật giáo Việt Nam sẽ làm nở hoa thật nhiều những đóa hoa sen ấy.

Ngài bắt đầu bằng việc Đức Phật đưa hoa sen giữa đại chúng, mà theo Thiền tông, đã bắt đầu cho dòng truyền Phật giáo:

[57] Thuở xưa hội cả Kỳ Viên

Bụt cầm một đóa hoa sen giơ bày

Ca Diếp trí huệ cao tay

Liễu ngộ tự tánh bằng nay mỉm cười 

Trần trần sát sát Như Lai

Chúng sanh mỗi người mỗi có hoa sen

Hoa là bản tánh trạm viên

Bao hàm thiên địa dưới trên cùng bằng.

Hậu học đà biết hay chăng

Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời

Thiêng liêng ứng khắp mọi nơi

Lục căn vận dụng trong ngoài thần thông

Chân hoa sắc tức thị Không

[70] Không tức thị sắc thể đồng như như.

Hoa sen ấy là “tự tánh”, là “bản tánh trạm viên” mà “mỗi người mỗi có”, dù đang chìm trong bùn, trong nước, hay đã ra ngoài không khí.

“Trần trần sát sát Như Lai” là cõi Phật nhiều như bụi, trong tất cả các cõi ấy, mỗi chúng sanh đều có hoa sen Phật tánh, tiềm năng để trở thành một con người hoàn thiệntoàn diện.

Thấy mỗi người đều có hoa sen, đều là hoa sen dù đang ở nơi thấp nhất của con đường tiến hóa, là cái thấy của trí huệtừ bi. Những tương quan, cách đối xử với người khác như những hoa sen với nhau, tạo thành một xã hội Đại thừa.

“Hoa là bản tánh tự nhiên, bao hàm thiên địa dưới trên cùng bằng”. Hoa senbản tánh tự nhiên vốn có, bản tánh không sanh không diệt, không tăng không giảm, không dơ không sạch. Chỉ vì không biết mà có những phiền não, những quan niệm sai lầm che lấp đối với chúng sanh ấy, nhưng những sự che chướng ấy chỉ là tạm thời, từ ngoài mà có nên có thể loại trừ, gỡ bỏ.

Chúng sanh được định nghĩa là hữu tình, có tâm. Tâm thì mỗi người mỗi khác nhau do nghiệp mà thành nhưng bản tánh của tâm, hoa sen bản tánh tự nhiên ấy thì ai cũng có. Ai cũng có nghĩa là bình đẳng, “cùng bằng”.

Hoa sen ấy phát triển, từ dưới nước vươn lên khỏi mặt nước và nở hoa trọn vẹn, biến những tiềm năng thành hiện thực vốn có của mình. Sự phát triển, nở hoa ấy là do Giới, Định, Huệ. Và khi nở hoa trọn vẹn thì “bao hàm trời đất, dưới trên cùng bằng”, nghĩa là bao trùm vũ trụ, bình đẳng khắp cả, không còn trên dưới, cao thấp, xấu tốt. Hoa sen khi nở hoa trọn vẹn chính là pháp giới của Phật, mà kinh Hoa Nghiêm gọi là Hoa Tạng pháp giới.

Khi đã vươn khỏi mặt nước và nở hoa thì hoa sen ấy không còn là hoa sen của cá nhân mỗi người, mà chỉ còn là một hoa sen bao trùm tất cả và tất cả là một hoa sen. Trong hoa sen pháp giới này, nghiệp của chúng sanh vẫn tồn tại, ai làm thì nấy chịu, nhưng với người đã thành hoa sen pháp giới thì nghiệp của chúng sanh vẫn được thấy là những hợp tạo duyên sanhbản chấthoa sen. Nói theo kinh điển, “bản tánh của phiền não là Bồ đề”. Điều này Phật giáo gọi là “chuyển hóa sanh tử thành Niết bàn”, “biến cõi trần gian khổ đau thành Tịnh độ”.

“Hậu học đà biết hay chăng”, hậu học là người học về sau. Hậu học không chỉ là người học trong đời ngài và vài đời kế tiếp, mà cho chính chúng ta hiện giờ và mãi về sau này. Bởi vì, với một người đã đi vào “cửa bất tử rộng mở” thì lời nói của người ấy cũng trở thành bất tử, truyền mãi cho muôn đời sau.

 

“Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời”. Hoa sen bản tánh của tâm này không phải là một cái gì xa xôi, trừu tượng mà là ở ngay nơi các giác quan, nơi thân khẩu ý của mỗi người, “tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời”. Khi một người nhận biết tâm hoa vốn sẳn nơi mình thì mọi cử chỉ, nói năng đều là sự biểu lộ của hoa sen, đều là thuyết pháp.

“Thiêng liêng ứng khắp mọi nơi. Lục căn vận dụng trong ngoài thần thông. Chân hoa sắc tức thị Không. Không tức thị sắc thể đồng như như”.

Hoa sen bản tánh của tâm ứng hiện nơi sáu giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu giác quan là sự biểu hiện, vận dụng của bản tánh của tâm. Một người đã đạt đến bản tánh của tâm sẽ thấy rằng sáu giác quandiệu dụng của bản tánh của tâm, khi ấy không còn sự phân cách giữa giác quan và các đối tượng của nó, không còn phân chia trong ngoài mà ứng hiện khắp. Khi các giác quan trở lại nguồn từ đó chúng sanh ra thì Kinh Lăng Nghiêm gọi là bản tánh của mắt, tai… hay là tánh thấy, tánh nghe.

Các giác quan về lại được nguồn tánh của nó, Kinh gọi là “viên thông”, và ở đây Thiền sư Chân Nguyên nói đó chính là thần thông.

Các giác quan khi đã về nguồn của chúng thì ứng khắp trong ngoài để biến thế giới của hiện tượng bình thường thành thế giới của bản tánh, thành cõi thanh tịnh, đó là thần thông.

Tâm hoa hay chân hoa, bản tánh của tâm, chuyển thế giới của hiện tượng sắc trở lại bản tánh của nó là tánh Không, “Chân hoa sắc tức thị Không”. Khi tất cả các hiện tượng sắc được nhìn thấy tận bản tánh Không của chúng, thế giới trở thành Pháp giới Nhất Chân hay Pháp giới Chân Như, mọi hiện tượng “thể đồng như như”.

 

Đoạn thứ hai Thiền sư Chân Nguyên nói về tâm hoa, cũng là ngọc sáng ai ai cũng sẳn có:

[389]. Ai ai đạt giả đồng đồ (đường)

Mỗi người mỗi có minh châu trong nhà

Mùa xuân vạn thụ khai hoa

[392]. Cành cao cành thấp vậy hòa chứng nên

 

Tâm hoa hay viên ngọc sáng người nào cũng sẳn có trong nhà, tức là trong thân tâm mình. Khi thời tiết mùa xuân đến thì tất cả đều nở hoa, dù cành cao hay cành thấp.

 

Sự nở hoa ấy xảy ra trên quê hương đất Việt của ngài. Đó cũng là lý do ngài viết Thiền Tông Bản Hạnh, chủ yếu kể về cuộc đời của ba vua đầu tiên của đời Trần, một minh chứng cho sự việc “Đời - Đạo không hai”.

[709]. Tổ đã đắp nấm trồng cây

Mộng Bồ đề nở sau này càng cao

Khai hoa kết quả lao xao

Dõi truyền đất Việt thấp cao trùng trùng

Ai khôn có chí có công

Tu hành ngộ được tâm tông mới mầu

Nhân duyên có trước có sau

Ai ai cũng có tính châu Bồ đề

Kiến văn tri giác khác gì

Mày ngang mũi dọc xem thì bằng nhau

Phật tiền Phật hậu trước sau

[720]. Bát Nhã huyền chỉ đạo mầu Ma Ha.

Cái nhìn thấy “tâm hoa”, “chân hoa” là cái thấy của trí huệ sâu rộng, và cái nhìn thấy “mỗi người mỗi có”, “ai ai cũng có” là cái thấy của từ bi sâu rộng. Trí huệtừ bi hợp nhất thì thấy sự bình đẳng vốn có giữa chúng sanh với nhau và giữa chúng sanh với các bậc giải thoát, giác ngộ, “Mày ngang mũi dọc xem thì bằng nhau, Phật tiền Phật hậu trước sau”.

 

Đoạn sau cùng nói về việc làm nở hoa là công việc cho các thế hệ mai sau. Đó là Phật sự “truyền đời” 

[757]. Hậu lai ai có hiếu trung 

Dù là ngộ được tâm tông hạnh này

Báo ơn Phật, Tổ mai ngày

[760]. Thiệu long tượng pháp sau lai truyền đời.

Công thành quả mãn làm nơi

Vì hay hà đảm (gánh vác) Như Lai tông thiền

Niêm hoa đã lại khêu đèn

Công ấy muôn nghìn thắng quả cao thay,

Dược Am gió mát bóng cây,

Dọn Thiền tông lại san nay để truyền

Phổ độ pháp giới hữu duyên

Cùng thành chánh giác quả viên Bồ đề

Mưa xuân đượm ướt vườn lê

[770]. Cành cao cành thấp đều thì nở hoa.

Những người đời sau (hậu lai) “có hiếu trung” với đạo Phật cần phải có những kinh nghiệm tâm linh về đạo Phật để “gánh vác” trách nhiệm “truyền bá”, “phổ độ pháp giới hữu duyên” để đi trên con đường “cùng thành chánh giác”. Đây là Bồ tát hạnh, “báo ơn Phật, Tổ” bằng cách “phổ độ pháp giới hữu duyên”.

 

Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, đạo Phật Việt Nam đã được tiếp xúc với truyền thống Phật giáo ở nhiều nước khác. Những truyền thống ấy đều có chung một nền tảng “tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn”. Chính trong sự tiếp xúc, giao thoa ấy mà đóa hoa Phật giáo Việt Nam càng có thêm hương sắc mặc dù muôn đời vẫn là đóa hoa sen Phật tánh.

Phải chăng những thập niên đầu của thế kỷ 21, đó là mùa xuânThiền sư Chân Nguyên vừa nhắn gởi vừa mong ước:

Mùa xuân vạn thụ khai hoa

Cành cao cành thấp vậy hòa chứng nên. 

-

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 94)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 114)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 147)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 209)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 190)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 216)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 207)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 247)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 229)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 191)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 151)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 178)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 200)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 282)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 286)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 306)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 270)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 322)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 341)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 589)
Chết an lành là mong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 567)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 840)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 435)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 672)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 485)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 466)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 375)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 497)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 452)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 641)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 432)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 831)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 559)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 568)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 931)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 668)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 562)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 848)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 534)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 641)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 576)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 617)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 638)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 632)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 532)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 698)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1012)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1184)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 912)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1230)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant