Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con Cọp Lông Vàng

09 Tháng Hai 202218:53(Xem: 2775)
Con Cọp Lông Vàng

CON CỌP LÔNG VÀNG


Huệ Trân


cop vang

          Trong những điển tích Phật giáo, tôi từng băn khoăn về chuyện một con cọp lông vàng. Câu chuyện đơn giản thôi, nhưng rất đáng cho chúng ta suy ngẫm.

          Con cọp lông vàng đó ở trong khu rừng rậm, bao quanh bởi núi non, vách đá cheo leo hiểm trở. Bộ lông vàng của nó óng mượt và rất đẹp, nhất là vào mỗi sáng, khi ánh dương lên chiếu vào từng sợi lông vàng thì ánh sáng đó long lanh, xuyên suốt tới nhiều dặm.

          Biết bao nhà quý tộc đã nghe biết và mơ ước có bộ áo lông vàng hiếm quý nên không ngừng chiêu dụ bọn thợ săn, trả giá thật cao để đạt được ước muốn.

          Tất nhiên, đây cũng là mơ ước của bọn thợ săn nên luôn có những kẻ tìm cách mon men tới bìa rừng với những túi tên tẩm thuốc độc, mong hạ thủ con cọp lông vàng để lột lông đem bán.

          Nhưng con cọp cực kỳ bén nhạy. Nó như “ngửi” được mùi cung tên nên ít có gã thợ săn nào tới được gần nó, cho tới khi một thợ săn nảy ý nghĩ, tìm một bộ áo ca-sa để trá hình làm vị sa-môn, ôm bình bát thong dong vào rừng. Tất nhiên, bên trong vạt áo ca-sa đó có cất dấu cung tên tẩm thuốc độc!

          Có lẽ gã thợ săn đó chỉ chợt nảy ý, thử thay hình đổi dạng vì nghĩ rằng con cọp lông vàng đã từng nhìn thấy nhiều thợ săn rình rập hãm hại nó, nên một hình dạng khác có thể chưa làm nó phải lẩn tránh. Gã chỉ cần một tích tắc ngần ngừ đó của con cọp là có thể ra tay hạ thủ!    

          Vậy thôi, mà đúng như dự đoán của gã! Với nhân dáng một thầy tu hiền lành, càng lúc gã thợ săn càng đến gần được con cọp. Rồi khi tầm gần vừa đủ ra tay thì gã nhanh nhẹn lắp tên, giương cung nhắm ngay tim con cọp mà bắn thẳng !

          Cọp trúng tên, gầm lên đau đớn. Trong vài giây phút cuối, nó dồn hết sức mạnh lao về phía bóng người mà nó tin là vừa hãm hại nó.

          Tuy bị trúng tên nhưng sức mạnh của con cọp trong sự đầy tức giận, căm thù đó cũng có thể đủ xô gã thợ săn ngã nhào, đủ sức cào cấu, cắn xé để kéo gã cùng sang bên kia thế giới với nó.

          Nhưng qua ánh mắt cố nhướng lên, con cọp trúng thương chợt nhận ra mầu áo ca-sa quen thuộc mà nó thường thấy các sa-môn ôm bát khất thực hoặc thầm lặng toạ thiền dưới những gốc cây đại thụ trong rừng.

          Nó không còn đủ tỉnh táo để tự hỏi sao hôm nay vị sa-môn hiền lành lại hại nó, nhưng có lẽ nó đủ nhẫn nhục để tự nhủ rằng: “Ồ, đây là một vị thầy tu. Ta thà chịu chết chứ không thể xâm phạm người này!”

          Câu chuyện chấm dứt ở đây.

 

          Trong câu chuyện này thì chiếc áo có làm nên thầy tu hay không?

          Có lẽ là có, ít nhất với con cọp lông vàng.

          Đừng trách con cọp lông vàng ngu xuẩn không nhận ra, sau lớp áo thầy tu là gã thợ săn độc ác, bởi vì con cọp chỉ nhìn chiếc áo như dấu hiệu của sứ giả Như Lai nên nó lập tức dừng tâm oán hận. Nó chưa đủ trí để ngăn chặn và thấu hiểu hết tâm địa ác độc của người, nhưng ít nhất, sự dừng tâm oán hận vào giây phút đó cũng giúp nó ra đi nhẹ nhàng.

          Giây phút này mới thật quan trọng cho mọi người, mọi loài vì chính giây phút này, kẻ ra đi nương theo tâm trạng và nghiệp lực mình mà thác sanh.

          Đã có phước duyên được gặp Phật pháp, được đọc, được nghe, được các bậc minh sư chỉ dạy thực hành con đường Phật đã chỉ ra, giúp chúng sanh giải thoát khổ đau thì người-con-Phật hãy tận dụng khả năng của mình mà cất bước.

          Lành thay, khi chân cất bước mà lòng tin nơi lời Phật đã hứa khả “Phật tánh đều sẵn có trong mọi người, mọi loài. Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành”

          Tìm học nơi Tam Tạng Thánh Giáo, người-con-Phật có thể thọ nhận phần nào mà chuyển hoá vô minh, để Phật tánh dần hiển lộ.

Từng bước hành trì, hãy thương người như thương ta mà vun bồi tâm từ bi, hãy vui với niềm vui của người mà tránh sự ganh ghét, hãy muốn ít biết đủ mà tránh tham cầu, hãy nhận diện những gì không phải nhu yếu mà thực hành hạnh buông xả…v…v…

Một vị thiền sư từng nhắc nhở: “Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường dành hầu hết thời gian của mình để đi tìm những tiện nghi sinh sống như tiện nghi vật chất, tiện nghi tình cảm … trong khi ta coi nhẹ đời sống tinh thần, đời sống tâm linh. Đời sống đó cần ta bước chậm lại, cần có cho ta những phút giây tĩnh lặng mới cảm nhận được. Lãng phí thời gian với những đòi hỏi tâm thường ta sẽ không có khả năng thừa hưởng những món quà đích thực quý giá … (*)

Quả thật, những thứ thật nhất trên đời là những thứ mà mắt thường không nhìn thấy!  

          Không ai chọn được cho mình cách ra đời, nhưng có thể chọn cách sống ở đời, sao cho lúc lìa đời không ân hận, không hối tiếc chi.


Huệ Trân

(Tào-Khê tịnh thất – thời điểm giao mùa)

 

(*) TS Nhất Hạnh - trong cuốn “Silence” 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 922)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1242)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 712)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 681)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 753)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 764)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 744)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 737)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 887)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 772)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 931)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 933)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 859)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 869)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 808)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 954)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 888)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 831)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 919)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 840)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 795)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 893)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 823)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1077)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 856)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 944)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1089)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1566)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1101)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1172)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1048)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 913)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 861)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 893)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 748)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1423)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1299)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1261)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1207)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1327)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1268)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1404)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1282)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1151)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1200)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1252)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1235)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1358)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1254)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant