Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thấy Chân Thường, Thấy Mùa Xuân Vĩnh Cửu

11 Tháng Hai 202219:06(Xem: 2327)
Thấy Chân Thường, Thấy Mùa Xuân Vĩnh Cửu
Thấy Chân Thường, Thấy Mùa Xuân Vĩnh Cửu

Nguyễn Thế Đăng

dao


Rỡ ràng tỏ rõ mười hai thì
Tự tánh vô công khắp hiện bày
Sáu căn vận dụng chân thường thấy
Vạn pháp tung hoành: chánh biến tri.

Hiển hách phân minh thập nhị thì
Thử chi tự tánh nhậm thi vi
Lục căn vận dụng chân thường kiến
Vạn pháp tung hoành chánh biến tri.

Đây là bài kệ thị tịch của Thiền sư Chân Nguyên (1647-1726). Bài kệ nói về tự tánh, tức là bản tánh của tâm của mỗi người, dù đã chứng ngộ hay chưa chứng ngộ, và sự biểu hiện của nó trong thế giới hình tướng của thế gian.

“Rỡ ràng tỏ rõ mười hai thời”

Tự tánh, từ ngữ được Lục Tổ Huệ Năng dùng suốt trong Pháp Bảo Đàn Kinh, để chỉ bản tánh của tâm, hay “Phật tánh mà tất cả chúng sanh đều có” được nói trong kinh Đại Bát Niết Bàn. Tự tánh này còn được gọi là tánh giác trong truyền thống Thiền, và trong Đại Toàn Thiện (Dzogchen) Ấn - Tạng gọi là tánh giác Rigpa. Tự tánh này luôn luôn tự tỏa sáng “rỡ ràng tỏ rõ mười hai thời”, cả ngày lẫn đêm, khi thức cũng như khi ngủ. Đây là ánh sáng căn bản của bản tánh của tâm mà kinh thường nói đến bằng từ “quang minh”.

Khi nói “rỡ ràng tỏ rõ” là nói đến phương diện Chiếu (hay Quán) của tự tánh, còn khi nói “tịch lặng bất động” là nói đến phương diện Tịch (hay Chỉ) của tự tánh. Tự tánh thì vừa Tịch vừa Chiếu, Chỉ Quán đồng thời.

Lục Tổ Huệ Năng nói tự tánh chiếu soi như sau:

“Trên đất tâm mình là tánh giác Như Lai, phóng ánh sáng lớn, ngoài chiếu soi sáu cửa thanh tịnh, hay phá các cõi trời lục dục. Tự tánh chiếu bên trong, ba độc liền dứt, các tội địa ngục nhất thời tiêu diệt. Trong ngoài sáng suốt chẳng khác Tịnh độ Tây phương” (Phẩm Nghi Vấn).

Tự tánh vô công khắp hiện bày

Chữ vô công để dịch chữ nhậm vận, vô công dụng đạo.

Tự tánh tự nhiên, không ra sức, mà hiện bày khắp trong tất cả các hình tướng. Bởi vì tự tánh là ánh sáng căn bản vốn có, nên trên nền tảng ấy các hình tướng xuất hiện, như một tấm gương sáng thì trong đó có các hình bóng xuất hiện. Như một thiền ngữ xưa nói: “Trúc biếc xanh xanh đều là Pháp thân; Hoa vàng rờ rỡ không gì chẳng phải là Bát nhã”.

Thiền sư Thiền Lão (đời thứ sáu dòng Vô Ngôn Thông) nói:

Trúc biếc hoa vàng đâu (phải) ngoại cảnh
Trăng trong mây bạc lộ toàn chân.

Ánh sáng tự tâm thì chiếu khắp, nhưng khó thấy. Nhờ có sự vật được chiếu sáng mà dễ dàng thấy ánh sáng. Sự vật vừa được ánh sáng làm cho hiển lộ, nếu không có ánh sáng sẽ không có sự vật, vừa là chỗ để ánh sáng dựa vàobiểu lộ sự soi chiếu của nó. Sự vật chính là nơi ánh sáng biểu lộ. Sự vật là ánh sáng và cũng chẳng phải là ánh sáng. Sự vật thì chuyển động, vô thường, ánh sáng tự tâm thì không chuyển động, thường còn.

“Tự tánh vô công khắp hiện bày” là ánh sáng tự tánh, nền tảng ánh sáng tự tánh khắp hiện bày này nhờ nó mà tất cả các hình tướng xuất hiệnrỡ ràng tỏ rõ. Cho nên với người thấy tánh, sự vật chính là sự hiển bày của ánh sáng tự tánh vô công khắp hiện bày.

Đạo sư Padmasambhava nói về tự tánh hay tánh giác tỏa sáng này như sau:

Tánh giác của con vốn biết, vốn sáng tỏrạng rỡ quang minh


Khi nó hiển hiện thì được gọi là Bồ đề tâm, tâm giác ngộ
Không có bất kỳ hoạt động thiền định nào, nó siêu việt mọi đối tượng của hiểu biết
Không có bất kỳ xao lãng nào, nó là sự trong sáng quang minh của bản tánh.
Những hình tướng trống không trong chính chúng, trở nên tự giải thoát
Sáng tỏtánh Không bất khả phân là Pháp thân.
Bởi vì rõ ràng là không có cái gì để thành tựu trên con đường đến Phật quả
Vào lúc này con sẽ thực sự thấy Phật Kim Cương Tát Đỏa.

 (Self‑Liberation through seeing with naked Awareness, Vajranatha dịch; Tự giải thoát qua thấy với tánh giác trần trụi, ban dịch thuật Thiện Tri Thức).

“Sáu căn vận dụng chân thường thấy”

Tánh giác chiếu soi qua sáu căn, mắt tai mũi lưỡi thân ý. Tánh giác là bản tánh của sáu căn, như kinh Lăng Nghiêm nói, “Một tinh minh (tánh giác) phân làm sáu phần hòa hợp (sáu căn)”. Cho nên khi sáu căn hoạt động (vận dụng) chúng ta có thể nhận biết nền tảng giác hay bản tánh giác của chúng. Bản tánh giác ấy là chân thường nên bài kệ nói “chân thường (được) thấy”. Cái thấy chân thường là một với chân thường, nên thấy chân thường chính là chân thường thấy, trong đó không có chủ thể và đối tượng. Chủ thể và đối tượng hòa tan vào cái thấy chân thường.

Người làm thanh tịnh tâm mình bằng thực hành Phật pháp thì khi được kinh điển hay một vị thầy khai thị thì có thể thấy bản tánh giác chân thường này nơi sáu căn, bởi vì sáu căn là sự biểu lộ của bản tánh giác chân thường ấy. Như các hình bóng trong tấm gương là sự biểu lộ của tấm gương sáng tỏ và bất động. Các hình bóng không nằm ngoài gương, nền tảng hay bản tánh của các hình bóng ấy chính là tấm gương.

“Vạn pháp tung hoành: chánh biến tri”

Khi thấy, nhận biết đầy đủ và thuần thục trong tánh giác thì người ta thấy, nghe, xúc chạm… tánh giác ở khắp cả, vì không đâu không là sự biểu lộ của tánh giác.

“Tung hoành” là dọc ngang. Muôn pháp, tất cả các pháp, dọc ngang khắp mười phương, đều là tánh giác. Đây là cái thấy biết của Phật, được gọi là Chánh Biến Tri (cái thấy biết chân chánh cùng khắp).

Trong các kinh, khi Đức Phật thuyết pháp xong, thường nói có bao nhiêu vị đắc pháp nhãn tịnh, bao nhiêu vị đắc Vô sanh pháp nhẫn. Pháp nhãn tịnh là con mắt pháp thanh tịnh, thấy tất cả các pháp “bổn lai thanh tịnh”. Khi con mắt pháp thanh tịnh này khai mở hoàn toàn thì được gọi là Chánh Biến Tri. Khi ấy, tất cả các pháp được thấy biết bằng Chánh Biến Tri thì trở thành Chánh Biến Tri: tất cả mắt tai mũi lưỡi thân ý và tất cả những đối tượng của chúng sắc thanh hương vị xúc pháp đều trở thành Chánh Biến Tri.

Khi mắt tai mũi lưỡi thân ý đều là tánh giác thì sắc thanh hương vị xúc pháp đều là tánh giác. Khi ấy người ta bước vào Tịnh độ của Phật hay nói theo Mật giáo là bước vào và ở nơi trung tâm Mạn đà la, trở thành một thành tựu giả: tất cả âm thanhthần chú, tức là lời của Phật, tất cả sắc tướng thế giớichúng sanhHóa thân của Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1204)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 933)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1253)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 717)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 688)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 761)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 770)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 753)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 748)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 901)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 782)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 941)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 944)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 872)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 876)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 813)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 962)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 895)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 835)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 924)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 846)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 806)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 903)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 837)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1099)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 867)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 951)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1098)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1571)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1110)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1182)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1056)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 920)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 867)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 912)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 758)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1438)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1314)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1276)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1215)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1332)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1281)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1419)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1297)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1163)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1206)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1265)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1250)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1363)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant