Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài Suy Nghĩ Về Khái Niệm Giải Thoát Sanh Tử Trong Đạo Phật

25 Tháng Hai 202215:18(Xem: 2561)
Vài Suy Nghĩ Về Khái Niệm Giải Thoát Sanh Tử Trong Đạo Phật
Vài Suy Nghĩ Về Khái Niệm Giải Thoát Sanh Tử Trong Đạo Phật

Thích Hạnh Chơn

giai thoat

Khi đọc lịch sử Đức Phật, có lẽ độc giả đều nhận ra lý do Thái tử Tất-đạt-đa (Sidhartha) quyết chí xuất gia tìm đạo. Đó là tìm con đường giải thoát. Khái niệm giải thoát được sử dụng phổ biến trong Phật giáo và hầu như người học Phật nào cũng trả lời tu tập là để giải thoátTuy nhiêngiải thoát cái gì mới là vấn đề cốt yếu. Trong Phật giáo, khái niệm giải thoát sanh tử thường được sử dụng để nói về mục đích cuối cùng của người tu tập Phật pháp. Bài viết sẽ bàn về khái niệm giải thoát sanh tử trong đạo Phật.
 

Giải thoát sanh tử là gì?

Trước hết, khái niệm giải thoát cần được giải thích. Theo các từ điển Phật họcgiải thoát (Sanskrit: morsha, mukti) là cởi bỏ được sự trói buộc của phiền não mà vượt thoát khỏi thế giới mê muội khổ đau; là ra khỏi sự trói buộc trong ba cõi dục, sắc, vô sắc; là dứt tuyệt nguyên nhân sinh tử luân hồi nghiệp báo; là không bị những luyến ái trói buộc cái tâm; là đạt được sự siêu thoát vượt sự trói buộc của thế giới trần tục, khỏi sự chi phối của dục vọng, sống hoàn toàn thanh thoát tự tại; là thoát khỏi ảo tưởng và khổ, thoát khỏi sự tái sinh trong luân hồi và đạt Niết-bàn1. Tóm lạigiải thoát là tâm không bị ràng buộc bởi các phiền não và các duyên trần khác và đạt Niết-bàn.

Hòa thượng Thích Thiện Siêu trình bày giải thoát bao gồm giải thoát hoàn cảnhgiải thoát tâm và giải thoát hoàn toànGiải thoát hoàn cảnh gồm cải tạo hoàn cảnhvật chất cho thật hết sứctốt đẹp và không chú trọng đến hoàn cảnh bên ngoài để không bị ràng buộcGiải thoát tâm tức giải thoát tất cả phiền não ràng buộc làm cho con người đau khổGiải thoát hoàn toàn là không còn bị thời gian và không gian hạn chế, không còn bị tâm lý sinh lý tầm thường chi phốiTrí tuệ thấy rõ các pháp bất nhị nên không bị ràng buộc khi ở thế gian và cũng không phải tìm cách ra khỏi ba cõi2. Như vậy, giải thoát là tâm không bị ràng buộc bởi hoàn cảnh, các phiền não, và ngay cả ý niệm bỉ-thử, sanh tử-Niết bàn.

Theo Tiểu kinh đoạn tận ái (Culatanhasankhayasutta) thuộc kinh Trung bộ (Majjhima Nikaya), một vị được gọi là giác ngộ giải thoát khi vị ấy “sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọkhông chấp trước một vật gì ở đời, không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn.” Vị ấy biết rõ rằng: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa.” Giải thoát, theo kinh văn, là ly thamkhông chấp trước, chứng Niết-bàn.

Thế thì, giải thoát cũng được hiểu là Niết-bàn, cũng đồng nghĩa với vô ngã. Niết-bàn nghĩa là dập tắt hết các phiền não dục vọng làm con người bất an khổ nãoVô ngã là không còn chấp vào cái tôi sinh ra tham, sân, si…Niết-bàn có thể xúc chạm được, có thể chứng nghiệm ngay hiện tại chứ không phải đợi đến sau khi chếtVì vậygiải thoát là sự chuyển hóa những phiền nãoxa lìa ngã chấp, thấy rõ thực tại của vạn pháp nên tâm tự tại3.

Từ những giải thích về khái niệm giải thoát ở trên, có thể rút ra một đặc điểm chung của giải thoát là không bị phiền não khổ đau và đạt Niết-bàn. Về khổ đau và sự chấm dứt khổ đau hay đạt Niết-bàn, kinh Chuyển pháp luân(Dhammacakkappavattana sutta) thuộc kinh Tương ưng ghi như sau: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ. Sự chấm dứt khổ là ly thamđoạn diệt ái, không có dư tàn khát ái ấy; là quăng bỏtừ bỏgiải thoát, không có chấp trướcBài kinh kết luậntham ái và tâm chấp trước là nguyên nhân của khổ đau. Từ đó, giải thoát được hiểu là ly tham ái, đoạn tận tham áitâm không còn chấp trước.

Căn cứ vào ý nghĩa của khái niệm giải thoát thì giải thoát sanh tử là sự cụ thể hóa của khái niệm giải thoát. Nói cách khác, khái niệm giải thoát sanh tử là nhấn mạnh đến mục đích của sự tu tập là nhằm đoạn tận ái dụcchấm dứt con đường sanh tử theo nghiệp báo thiện ác.

Trong chương Một pháp, kinh Phật thuyết như vậy (Như thị ngữ/Itivuttaka) thuộc Tiểu bộ (Khuddaka Nikaya), Đức Phật dạy có một pháp đưa đến không còn tái sanh. Đó là hãy từ bỏ tham ái, hãy từ bỏ sân hận, hãy từ bỏ si mê, hãy từ bỏ phẫn nộ, hãy từ bỏ gièm pha, hãy từ bỏ kiêu mạnTừ bỏ một pháp bất thiện là từ bỏ nghiệp nhân đưa đến sanh tử nên không còn tái sanh nữa. Ở đây cũng cần phải hiểu tái sanh là tái sanh theo nghiệp.

Theo Hòa thượng Thanh Từ, giải thoát sanh tử là khi tu thấy được chân tâm, không còn chạy theo vọng tâm lăng xăng, thương ghét…Bởi vì thân tứ đại thì phải sanh diệt, tâm vọng thì luôn thay đổi. Chỉ có chân tâm hằng thanh tịnh. Thấy được chân tâm không còn tạo nghiệp nữa là giải thoát sanh tử, là thoát luân hồi. Nói cách khác, giải thoát sanh tử phải dứt mầm vô minh, tham ái4.

Theo định nghĩa của Tiểu kinh đoạn tận áigiải thoát là chứng đạt Niết-bàn, là đắc quả vị A-la-hán. Vị ấy sanh đã tận…không còn trở lại đời này nữa. Có thể nói một cách dễ hiểu là các vị thánh A-la-hán không còn tạo nghiệp thiện ác do đã chấm dứt tâm tham, sân, si…nên không bị nghiệp dẫn dắt đi tái sanh trong các nẻo luân hồiTuy nhiên, một vấn đề lớn thường được đặt ra là các vị thánh sẽ ở đâu sau khi bỏ thân tứ đạiĐức Phật lấy ví dụ “củi hết lửa tắt”để trả lời. Củi hết là nghiệp hết, lửa tắt là chấm dứt sanh tử. Hết nghiệp là hết sanh tử.

Sau khi giải thoát sanh tử

Phải chăng giải thoát sanh tử là không còn sanh trở lại?! Như vừa trình bày, giải thoát sanh tử là giải thoát nghiệp dẫn đi sanh tử luân hồi khổ đau. Ở đây, cần phân biệt sanh tử luân hồi khổ đau và sanh tử như là một quy luật. Đối với bậc Thánh, tuy thân chịu sanh tử như là một quy luật duyên sanh vật lý nhưng tâm luôn tự tại không bị nghiệp chi phốiTrường hợp sanh tử sau đồng nghĩa với Niết-bàn hữu dư5 của các thánh A-la-hán hay thân thị hiện độ sanh của hàng Bồ-tát. Có thị hiện là có sanh, có sanh thì phải có tử. Sự khác biệt là sự sanh tử của các vị Bồ-tát theo nguyện chứ không theo nghiệp.

Sự sanh tử theo nguyện có thể kể đến là sự thị hiện của Đức Phật Thích Ca, của Bồ-tát Di Lặc và Bồ-tát Quán Thế Âm. Trong kinh Tiểu bộ có rất nhiều chuyện tiền thân Đức Phật được ghi chép lại. Các nhân vật trong các câu chuyện tiền thân đều được tin là Bồ-tát thị hiện. Đã là Bồ-tát thì tất nhiên đã giải thoát sanh tử. Thế thì, Thái tử Tất-đạt-đa giáng sinhtu tập, chứng Phật quảtịch diệt là một trường hợp sanh tử (thuộc thân) xảy ra sau khi đã giải thoát sanh tử từ nhiều kiếp trước.

Về Bồ-tát Di Lặc, cả Nam truyền và Bắc truyền đều tin rằng Bồ-tát hiện ở cõi trời Đâu Suất (Tusita) và được tin rằng sẽ giáng sinh trong tương lai ở cõi Ta-bà để tiếp tục tu tập chứng ngộ Phật quảkế thừa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Còn Bồ-tát Quán Thế Âm, kinh Đại bi tâm Đà-ra-ni ghi rằng Ngài đã thành Phật hiệu Chánh Pháp Minh nhưng vì nguyện lực đại bi nên mới hiện thân là Quán Thế Âm để độ chúng sanh.

Khi một vị Bồ-tát hay vị thánh thị hiện tức là sanh, là xuất hiện. Tất nhiên, thân thị hiện đó sẽ phải diệt (tử) theo quy luật duyên sanh. Chỉ có chân tâm thanh tịnh, không bị sanh diệt theo trần cảnh và luôn tự tạiPhật giáo Đại thừa chủ trương thuyết độ sanh theo hình thức này. Từ đó, có thể giải thích thông suốt rằng Phật hay các bậc Thánh theo nguyện lực tùy duyên vào sanh ra tử để hóa độ chúng sanh nhưng tâm luôn tự tại, không bị khổ đau.

Có sự sống là có sanh tử

Về sanh tử, có hai phần cần phải phân biệt. Một là tâm sanh diệt. Hai là thân sanh diệt. Tâm sanh diệt, như Hòa thượng Thanh Từ nói, là vọng tâm. Còn chân tâm thì thanh tịnh hằng hữu ví như cái thấy của con mắt lúc nào cũng hằng hữu dù mắt nhắm hay mở. Thân tứ đại sanh diệt thì ai cũng có thể hiểu vì nó thuộc nguyên lý vật lý. Trong kinh Phật tự thuyết(Udana) thuộc Tiểu bộ IĐức Phật dạy về lý duyên khởi như sau: “Do cái này có mặt nên cái kia có mặt, do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt, do cái này sinh nên cái kia sinh, do cái này diệt nên cái kia diệt.” Thân tứ đại đã sanh thì nó phải diệt, theo lý duyên khởi.

Theo lịch sử Đức Phật Thích Ca, Ngài chứng Niết-bàn thành Phật sau 49 ngày đêm thiền định. Kể từ khi ấy, tâm Phật luôn thanh tịnh không còn sanh diệt như vọng tâm của chúng sanhTuy nhiênthân tứ đại của Phật vẫn chịu sự chi phối bởi nguyên lý sanh diệtSuy rộng ra, khi có sự sống hiện hữu bằng thân tứ đại thì tất yếu có sự sanh tử. Đó là quy luật tự nhiên, là lý duyên khởi. Do đó, giải thoát sanh tử không có nghĩa là hoàn toàn không tồn tại ở cõi đời này hay thế giới khác.

Đạo Phật hướng đến giải thoát sanh tử, chứng Niết-bàn để sống tự tại trong cuộc đời mà làm lợi lạc quần sanhQuan niệm giải thoát sanh tử, chứng Niết-bàn ở thế giới nào đó và chỉ đạt được sau khi chết là một quan niệm cần đánh giá lại. Vì nói như thế là phủ nhận cuộc đời và giá trị đóng góp to lớn của Đức Phật Thích Ca Mâu NiĐồng thờiquan niệm ấy cũng làm cho Phật giáo trở nên siêu hình và xa lánh cuộc đời hiện hữu. Do vậy, nhận thức đúng khái niệm để hiểu đúng và tu tập đúng là quá trình rất cần đối với bất cứ ai tu tập Phật pháp.

 Thích Hạnh Chơn

___________________

(1) Từ điển Phật học Đạo Uyển;Phật Quang Đại từ điển; Từ điển Phật học Thiện Phúc.

(2) Thích Thiện Siêu. Giải thoát trong Phật giáo. <https://thuvienhoasen.org/a8567/giai-thoat-trong-phat-giao>, truy cập, 8-3-2017.

(3) Tâm Diệu. Quan niệm giải thoát trong Phật giáo và Bà-la-môn giáo. <https://thuvienhoasen.org/a7941/quan-niem-giai-thoat-trong-phat-giao-va-ba-la-mon-giao>, truy cập ngày 6-3-2017.

(4) Thích Thanh Từ. Giải thoát là cốt lõi của đạo Phật. <http://thuongchieu.net/index.php/phapthoai/suong/1823-gii-thoat-la-ct-loi-ca-o-pht>, truy cập ngày 6-3-2017.

(5) Đức Phật Thích Ca và các Thánh đệ tử A-la-hán đạt Niết-bàn, giải thoát sanh tử (về tâm) nhưng vẫn còn thân tứ đại nên thân ấy cũng phải theo quy luật sanh diệt. Khi thân các vị Thánh hoại thì được gọi là Niết-bàn vô dư.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 921)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1240)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 710)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 680)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 752)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 764)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 744)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 737)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 887)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 771)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 930)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 933)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 859)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 867)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 807)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 954)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 888)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 831)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 919)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 840)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 795)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 893)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 822)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1077)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 856)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 943)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1089)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1565)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1100)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1172)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1048)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 912)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 861)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 892)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 747)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1422)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1297)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1260)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1207)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1327)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1266)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1404)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1281)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1145)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1200)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1251)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1233)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1358)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1253)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant