Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài Suy Nghĩ Về Khái Niệm Giải Thoát Sanh Tử Trong Đạo Phật

25 Tháng Hai 202215:18(Xem: 2493)
Vài Suy Nghĩ Về Khái Niệm Giải Thoát Sanh Tử Trong Đạo Phật
Vài Suy Nghĩ Về Khái Niệm Giải Thoát Sanh Tử Trong Đạo Phật

Thích Hạnh Chơn

giai thoat

Khi đọc lịch sử Đức Phật, có lẽ độc giả đều nhận ra lý do Thái tử Tất-đạt-đa (Sidhartha) quyết chí xuất gia tìm đạo. Đó là tìm con đường giải thoát. Khái niệm giải thoát được sử dụng phổ biến trong Phật giáo và hầu như người học Phật nào cũng trả lời tu tập là để giải thoátTuy nhiêngiải thoát cái gì mới là vấn đề cốt yếu. Trong Phật giáo, khái niệm giải thoát sanh tử thường được sử dụng để nói về mục đích cuối cùng của người tu tập Phật pháp. Bài viết sẽ bàn về khái niệm giải thoát sanh tử trong đạo Phật.
 

Giải thoát sanh tử là gì?

Trước hết, khái niệm giải thoát cần được giải thích. Theo các từ điển Phật họcgiải thoát (Sanskrit: morsha, mukti) là cởi bỏ được sự trói buộc của phiền não mà vượt thoát khỏi thế giới mê muội khổ đau; là ra khỏi sự trói buộc trong ba cõi dục, sắc, vô sắc; là dứt tuyệt nguyên nhân sinh tử luân hồi nghiệp báo; là không bị những luyến ái trói buộc cái tâm; là đạt được sự siêu thoát vượt sự trói buộc của thế giới trần tục, khỏi sự chi phối của dục vọng, sống hoàn toàn thanh thoát tự tại; là thoát khỏi ảo tưởng và khổ, thoát khỏi sự tái sinh trong luân hồi và đạt Niết-bàn1. Tóm lạigiải thoát là tâm không bị ràng buộc bởi các phiền não và các duyên trần khác và đạt Niết-bàn.

Hòa thượng Thích Thiện Siêu trình bày giải thoát bao gồm giải thoát hoàn cảnhgiải thoát tâm và giải thoát hoàn toànGiải thoát hoàn cảnh gồm cải tạo hoàn cảnhvật chất cho thật hết sứctốt đẹp và không chú trọng đến hoàn cảnh bên ngoài để không bị ràng buộcGiải thoát tâm tức giải thoát tất cả phiền não ràng buộc làm cho con người đau khổGiải thoát hoàn toàn là không còn bị thời gian và không gian hạn chế, không còn bị tâm lý sinh lý tầm thường chi phốiTrí tuệ thấy rõ các pháp bất nhị nên không bị ràng buộc khi ở thế gian và cũng không phải tìm cách ra khỏi ba cõi2. Như vậy, giải thoát là tâm không bị ràng buộc bởi hoàn cảnh, các phiền não, và ngay cả ý niệm bỉ-thử, sanh tử-Niết bàn.

Theo Tiểu kinh đoạn tận ái (Culatanhasankhayasutta) thuộc kinh Trung bộ (Majjhima Nikaya), một vị được gọi là giác ngộ giải thoát khi vị ấy “sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọkhông chấp trước một vật gì ở đời, không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn.” Vị ấy biết rõ rằng: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa.” Giải thoát, theo kinh văn, là ly thamkhông chấp trước, chứng Niết-bàn.

Thế thì, giải thoát cũng được hiểu là Niết-bàn, cũng đồng nghĩa với vô ngã. Niết-bàn nghĩa là dập tắt hết các phiền não dục vọng làm con người bất an khổ nãoVô ngã là không còn chấp vào cái tôi sinh ra tham, sân, si…Niết-bàn có thể xúc chạm được, có thể chứng nghiệm ngay hiện tại chứ không phải đợi đến sau khi chếtVì vậygiải thoát là sự chuyển hóa những phiền nãoxa lìa ngã chấp, thấy rõ thực tại của vạn pháp nên tâm tự tại3.

Từ những giải thích về khái niệm giải thoát ở trên, có thể rút ra một đặc điểm chung của giải thoát là không bị phiền não khổ đau và đạt Niết-bàn. Về khổ đau và sự chấm dứt khổ đau hay đạt Niết-bàn, kinh Chuyển pháp luân(Dhammacakkappavattana sutta) thuộc kinh Tương ưng ghi như sau: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ. Sự chấm dứt khổ là ly thamđoạn diệt ái, không có dư tàn khát ái ấy; là quăng bỏtừ bỏgiải thoát, không có chấp trướcBài kinh kết luậntham ái và tâm chấp trước là nguyên nhân của khổ đau. Từ đó, giải thoát được hiểu là ly tham ái, đoạn tận tham áitâm không còn chấp trước.

Căn cứ vào ý nghĩa của khái niệm giải thoát thì giải thoát sanh tử là sự cụ thể hóa của khái niệm giải thoát. Nói cách khác, khái niệm giải thoát sanh tử là nhấn mạnh đến mục đích của sự tu tập là nhằm đoạn tận ái dụcchấm dứt con đường sanh tử theo nghiệp báo thiện ác.

Trong chương Một pháp, kinh Phật thuyết như vậy (Như thị ngữ/Itivuttaka) thuộc Tiểu bộ (Khuddaka Nikaya), Đức Phật dạy có một pháp đưa đến không còn tái sanh. Đó là hãy từ bỏ tham ái, hãy từ bỏ sân hận, hãy từ bỏ si mê, hãy từ bỏ phẫn nộ, hãy từ bỏ gièm pha, hãy từ bỏ kiêu mạnTừ bỏ một pháp bất thiện là từ bỏ nghiệp nhân đưa đến sanh tử nên không còn tái sanh nữa. Ở đây cũng cần phải hiểu tái sanh là tái sanh theo nghiệp.

Theo Hòa thượng Thanh Từ, giải thoát sanh tử là khi tu thấy được chân tâm, không còn chạy theo vọng tâm lăng xăng, thương ghét…Bởi vì thân tứ đại thì phải sanh diệt, tâm vọng thì luôn thay đổi. Chỉ có chân tâm hằng thanh tịnh. Thấy được chân tâm không còn tạo nghiệp nữa là giải thoát sanh tử, là thoát luân hồi. Nói cách khác, giải thoát sanh tử phải dứt mầm vô minh, tham ái4.

Theo định nghĩa của Tiểu kinh đoạn tận áigiải thoát là chứng đạt Niết-bàn, là đắc quả vị A-la-hán. Vị ấy sanh đã tận…không còn trở lại đời này nữa. Có thể nói một cách dễ hiểu là các vị thánh A-la-hán không còn tạo nghiệp thiện ác do đã chấm dứt tâm tham, sân, si…nên không bị nghiệp dẫn dắt đi tái sanh trong các nẻo luân hồiTuy nhiên, một vấn đề lớn thường được đặt ra là các vị thánh sẽ ở đâu sau khi bỏ thân tứ đạiĐức Phật lấy ví dụ “củi hết lửa tắt”để trả lời. Củi hết là nghiệp hết, lửa tắt là chấm dứt sanh tử. Hết nghiệp là hết sanh tử.

Sau khi giải thoát sanh tử

Phải chăng giải thoát sanh tử là không còn sanh trở lại?! Như vừa trình bày, giải thoát sanh tử là giải thoát nghiệp dẫn đi sanh tử luân hồi khổ đau. Ở đây, cần phân biệt sanh tử luân hồi khổ đau và sanh tử như là một quy luật. Đối với bậc Thánh, tuy thân chịu sanh tử như là một quy luật duyên sanh vật lý nhưng tâm luôn tự tại không bị nghiệp chi phốiTrường hợp sanh tử sau đồng nghĩa với Niết-bàn hữu dư5 của các thánh A-la-hán hay thân thị hiện độ sanh của hàng Bồ-tát. Có thị hiện là có sanh, có sanh thì phải có tử. Sự khác biệt là sự sanh tử của các vị Bồ-tát theo nguyện chứ không theo nghiệp.

Sự sanh tử theo nguyện có thể kể đến là sự thị hiện của Đức Phật Thích Ca, của Bồ-tát Di Lặc và Bồ-tát Quán Thế Âm. Trong kinh Tiểu bộ có rất nhiều chuyện tiền thân Đức Phật được ghi chép lại. Các nhân vật trong các câu chuyện tiền thân đều được tin là Bồ-tát thị hiện. Đã là Bồ-tát thì tất nhiên đã giải thoát sanh tử. Thế thì, Thái tử Tất-đạt-đa giáng sinhtu tập, chứng Phật quảtịch diệt là một trường hợp sanh tử (thuộc thân) xảy ra sau khi đã giải thoát sanh tử từ nhiều kiếp trước.

Về Bồ-tát Di Lặc, cả Nam truyền và Bắc truyền đều tin rằng Bồ-tát hiện ở cõi trời Đâu Suất (Tusita) và được tin rằng sẽ giáng sinh trong tương lai ở cõi Ta-bà để tiếp tục tu tập chứng ngộ Phật quảkế thừa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Còn Bồ-tát Quán Thế Âm, kinh Đại bi tâm Đà-ra-ni ghi rằng Ngài đã thành Phật hiệu Chánh Pháp Minh nhưng vì nguyện lực đại bi nên mới hiện thân là Quán Thế Âm để độ chúng sanh.

Khi một vị Bồ-tát hay vị thánh thị hiện tức là sanh, là xuất hiện. Tất nhiên, thân thị hiện đó sẽ phải diệt (tử) theo quy luật duyên sanh. Chỉ có chân tâm thanh tịnh, không bị sanh diệt theo trần cảnh và luôn tự tạiPhật giáo Đại thừa chủ trương thuyết độ sanh theo hình thức này. Từ đó, có thể giải thích thông suốt rằng Phật hay các bậc Thánh theo nguyện lực tùy duyên vào sanh ra tử để hóa độ chúng sanh nhưng tâm luôn tự tại, không bị khổ đau.

Có sự sống là có sanh tử

Về sanh tử, có hai phần cần phải phân biệt. Một là tâm sanh diệt. Hai là thân sanh diệt. Tâm sanh diệt, như Hòa thượng Thanh Từ nói, là vọng tâm. Còn chân tâm thì thanh tịnh hằng hữu ví như cái thấy của con mắt lúc nào cũng hằng hữu dù mắt nhắm hay mở. Thân tứ đại sanh diệt thì ai cũng có thể hiểu vì nó thuộc nguyên lý vật lý. Trong kinh Phật tự thuyết(Udana) thuộc Tiểu bộ IĐức Phật dạy về lý duyên khởi như sau: “Do cái này có mặt nên cái kia có mặt, do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt, do cái này sinh nên cái kia sinh, do cái này diệt nên cái kia diệt.” Thân tứ đại đã sanh thì nó phải diệt, theo lý duyên khởi.

Theo lịch sử Đức Phật Thích Ca, Ngài chứng Niết-bàn thành Phật sau 49 ngày đêm thiền định. Kể từ khi ấy, tâm Phật luôn thanh tịnh không còn sanh diệt như vọng tâm của chúng sanhTuy nhiênthân tứ đại của Phật vẫn chịu sự chi phối bởi nguyên lý sanh diệtSuy rộng ra, khi có sự sống hiện hữu bằng thân tứ đại thì tất yếu có sự sanh tử. Đó là quy luật tự nhiên, là lý duyên khởi. Do đó, giải thoát sanh tử không có nghĩa là hoàn toàn không tồn tại ở cõi đời này hay thế giới khác.

Đạo Phật hướng đến giải thoát sanh tử, chứng Niết-bàn để sống tự tại trong cuộc đời mà làm lợi lạc quần sanhQuan niệm giải thoát sanh tử, chứng Niết-bàn ở thế giới nào đó và chỉ đạt được sau khi chết là một quan niệm cần đánh giá lại. Vì nói như thế là phủ nhận cuộc đời và giá trị đóng góp to lớn của Đức Phật Thích Ca Mâu NiĐồng thờiquan niệm ấy cũng làm cho Phật giáo trở nên siêu hình và xa lánh cuộc đời hiện hữu. Do vậy, nhận thức đúng khái niệm để hiểu đúng và tu tập đúng là quá trình rất cần đối với bất cứ ai tu tập Phật pháp.

 Thích Hạnh Chơn

___________________

(1) Từ điển Phật học Đạo Uyển;Phật Quang Đại từ điển; Từ điển Phật học Thiện Phúc.

(2) Thích Thiện Siêu. Giải thoát trong Phật giáo. <https://thuvienhoasen.org/a8567/giai-thoat-trong-phat-giao>, truy cập, 8-3-2017.

(3) Tâm Diệu. Quan niệm giải thoát trong Phật giáo và Bà-la-môn giáo. <https://thuvienhoasen.org/a7941/quan-niem-giai-thoat-trong-phat-giao-va-ba-la-mon-giao>, truy cập ngày 6-3-2017.

(4) Thích Thanh Từ. Giải thoát là cốt lõi của đạo Phật. <http://thuongchieu.net/index.php/phapthoai/suong/1823-gii-thoat-la-ct-loi-ca-o-pht>, truy cập ngày 6-3-2017.

(5) Đức Phật Thích Ca và các Thánh đệ tử A-la-hán đạt Niết-bàn, giải thoát sanh tử (về tâm) nhưng vẫn còn thân tứ đại nên thân ấy cũng phải theo quy luật sanh diệt. Khi thân các vị Thánh hoại thì được gọi là Niết-bàn vô dư.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1149)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1216)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1223)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1826)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1238)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1247)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1136)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1366)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1221)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1112)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1069)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1121)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1124)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1265)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 991)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 982)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1037)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1162)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1198)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 968)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1084)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1027)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1160)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1157)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1285)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1365)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1133)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1119)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1258)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1274)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1208)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1505)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1161)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1194)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1224)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1086)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1118)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1223)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1341)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1404)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1560)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1417)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1342)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1115)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1216)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1186)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1251)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1214)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1165)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant