Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài Suy Nghĩ Về Khái Niệm Giải Thoát Sanh Tử Trong Đạo Phật

25 Tháng Hai 202215:18(Xem: 2563)
Vài Suy Nghĩ Về Khái Niệm Giải Thoát Sanh Tử Trong Đạo Phật
Vài Suy Nghĩ Về Khái Niệm Giải Thoát Sanh Tử Trong Đạo Phật

Thích Hạnh Chơn

giai thoat

Khi đọc lịch sử Đức Phật, có lẽ độc giả đều nhận ra lý do Thái tử Tất-đạt-đa (Sidhartha) quyết chí xuất gia tìm đạo. Đó là tìm con đường giải thoát. Khái niệm giải thoát được sử dụng phổ biến trong Phật giáo và hầu như người học Phật nào cũng trả lời tu tập là để giải thoátTuy nhiêngiải thoát cái gì mới là vấn đề cốt yếu. Trong Phật giáo, khái niệm giải thoát sanh tử thường được sử dụng để nói về mục đích cuối cùng của người tu tập Phật pháp. Bài viết sẽ bàn về khái niệm giải thoát sanh tử trong đạo Phật.
 

Giải thoát sanh tử là gì?

Trước hết, khái niệm giải thoát cần được giải thích. Theo các từ điển Phật họcgiải thoát (Sanskrit: morsha, mukti) là cởi bỏ được sự trói buộc của phiền não mà vượt thoát khỏi thế giới mê muội khổ đau; là ra khỏi sự trói buộc trong ba cõi dục, sắc, vô sắc; là dứt tuyệt nguyên nhân sinh tử luân hồi nghiệp báo; là không bị những luyến ái trói buộc cái tâm; là đạt được sự siêu thoát vượt sự trói buộc của thế giới trần tục, khỏi sự chi phối của dục vọng, sống hoàn toàn thanh thoát tự tại; là thoát khỏi ảo tưởng và khổ, thoát khỏi sự tái sinh trong luân hồi và đạt Niết-bàn1. Tóm lạigiải thoát là tâm không bị ràng buộc bởi các phiền não và các duyên trần khác và đạt Niết-bàn.

Hòa thượng Thích Thiện Siêu trình bày giải thoát bao gồm giải thoát hoàn cảnhgiải thoát tâm và giải thoát hoàn toànGiải thoát hoàn cảnh gồm cải tạo hoàn cảnhvật chất cho thật hết sứctốt đẹp và không chú trọng đến hoàn cảnh bên ngoài để không bị ràng buộcGiải thoát tâm tức giải thoát tất cả phiền não ràng buộc làm cho con người đau khổGiải thoát hoàn toàn là không còn bị thời gian và không gian hạn chế, không còn bị tâm lý sinh lý tầm thường chi phốiTrí tuệ thấy rõ các pháp bất nhị nên không bị ràng buộc khi ở thế gian và cũng không phải tìm cách ra khỏi ba cõi2. Như vậy, giải thoát là tâm không bị ràng buộc bởi hoàn cảnh, các phiền não, và ngay cả ý niệm bỉ-thử, sanh tử-Niết bàn.

Theo Tiểu kinh đoạn tận ái (Culatanhasankhayasutta) thuộc kinh Trung bộ (Majjhima Nikaya), một vị được gọi là giác ngộ giải thoát khi vị ấy “sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọkhông chấp trước một vật gì ở đời, không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn.” Vị ấy biết rõ rằng: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa.” Giải thoát, theo kinh văn, là ly thamkhông chấp trước, chứng Niết-bàn.

Thế thì, giải thoát cũng được hiểu là Niết-bàn, cũng đồng nghĩa với vô ngã. Niết-bàn nghĩa là dập tắt hết các phiền não dục vọng làm con người bất an khổ nãoVô ngã là không còn chấp vào cái tôi sinh ra tham, sân, si…Niết-bàn có thể xúc chạm được, có thể chứng nghiệm ngay hiện tại chứ không phải đợi đến sau khi chếtVì vậygiải thoát là sự chuyển hóa những phiền nãoxa lìa ngã chấp, thấy rõ thực tại của vạn pháp nên tâm tự tại3.

Từ những giải thích về khái niệm giải thoát ở trên, có thể rút ra một đặc điểm chung của giải thoát là không bị phiền não khổ đau và đạt Niết-bàn. Về khổ đau và sự chấm dứt khổ đau hay đạt Niết-bàn, kinh Chuyển pháp luân(Dhammacakkappavattana sutta) thuộc kinh Tương ưng ghi như sau: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ. Sự chấm dứt khổ là ly thamđoạn diệt ái, không có dư tàn khát ái ấy; là quăng bỏtừ bỏgiải thoát, không có chấp trướcBài kinh kết luậntham ái và tâm chấp trước là nguyên nhân của khổ đau. Từ đó, giải thoát được hiểu là ly tham ái, đoạn tận tham áitâm không còn chấp trước.

Căn cứ vào ý nghĩa của khái niệm giải thoát thì giải thoát sanh tử là sự cụ thể hóa của khái niệm giải thoát. Nói cách khác, khái niệm giải thoát sanh tử là nhấn mạnh đến mục đích của sự tu tập là nhằm đoạn tận ái dụcchấm dứt con đường sanh tử theo nghiệp báo thiện ác.

Trong chương Một pháp, kinh Phật thuyết như vậy (Như thị ngữ/Itivuttaka) thuộc Tiểu bộ (Khuddaka Nikaya), Đức Phật dạy có một pháp đưa đến không còn tái sanh. Đó là hãy từ bỏ tham ái, hãy từ bỏ sân hận, hãy từ bỏ si mê, hãy từ bỏ phẫn nộ, hãy từ bỏ gièm pha, hãy từ bỏ kiêu mạnTừ bỏ một pháp bất thiện là từ bỏ nghiệp nhân đưa đến sanh tử nên không còn tái sanh nữa. Ở đây cũng cần phải hiểu tái sanh là tái sanh theo nghiệp.

Theo Hòa thượng Thanh Từ, giải thoát sanh tử là khi tu thấy được chân tâm, không còn chạy theo vọng tâm lăng xăng, thương ghét…Bởi vì thân tứ đại thì phải sanh diệt, tâm vọng thì luôn thay đổi. Chỉ có chân tâm hằng thanh tịnh. Thấy được chân tâm không còn tạo nghiệp nữa là giải thoát sanh tử, là thoát luân hồi. Nói cách khác, giải thoát sanh tử phải dứt mầm vô minh, tham ái4.

Theo định nghĩa của Tiểu kinh đoạn tận áigiải thoát là chứng đạt Niết-bàn, là đắc quả vị A-la-hán. Vị ấy sanh đã tận…không còn trở lại đời này nữa. Có thể nói một cách dễ hiểu là các vị thánh A-la-hán không còn tạo nghiệp thiện ác do đã chấm dứt tâm tham, sân, si…nên không bị nghiệp dẫn dắt đi tái sanh trong các nẻo luân hồiTuy nhiên, một vấn đề lớn thường được đặt ra là các vị thánh sẽ ở đâu sau khi bỏ thân tứ đạiĐức Phật lấy ví dụ “củi hết lửa tắt”để trả lời. Củi hết là nghiệp hết, lửa tắt là chấm dứt sanh tử. Hết nghiệp là hết sanh tử.

Sau khi giải thoát sanh tử

Phải chăng giải thoát sanh tử là không còn sanh trở lại?! Như vừa trình bày, giải thoát sanh tử là giải thoát nghiệp dẫn đi sanh tử luân hồi khổ đau. Ở đây, cần phân biệt sanh tử luân hồi khổ đau và sanh tử như là một quy luật. Đối với bậc Thánh, tuy thân chịu sanh tử như là một quy luật duyên sanh vật lý nhưng tâm luôn tự tại không bị nghiệp chi phốiTrường hợp sanh tử sau đồng nghĩa với Niết-bàn hữu dư5 của các thánh A-la-hán hay thân thị hiện độ sanh của hàng Bồ-tát. Có thị hiện là có sanh, có sanh thì phải có tử. Sự khác biệt là sự sanh tử của các vị Bồ-tát theo nguyện chứ không theo nghiệp.

Sự sanh tử theo nguyện có thể kể đến là sự thị hiện của Đức Phật Thích Ca, của Bồ-tát Di Lặc và Bồ-tát Quán Thế Âm. Trong kinh Tiểu bộ có rất nhiều chuyện tiền thân Đức Phật được ghi chép lại. Các nhân vật trong các câu chuyện tiền thân đều được tin là Bồ-tát thị hiện. Đã là Bồ-tát thì tất nhiên đã giải thoát sanh tử. Thế thì, Thái tử Tất-đạt-đa giáng sinhtu tập, chứng Phật quảtịch diệt là một trường hợp sanh tử (thuộc thân) xảy ra sau khi đã giải thoát sanh tử từ nhiều kiếp trước.

Về Bồ-tát Di Lặc, cả Nam truyền và Bắc truyền đều tin rằng Bồ-tát hiện ở cõi trời Đâu Suất (Tusita) và được tin rằng sẽ giáng sinh trong tương lai ở cõi Ta-bà để tiếp tục tu tập chứng ngộ Phật quảkế thừa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Còn Bồ-tát Quán Thế Âm, kinh Đại bi tâm Đà-ra-ni ghi rằng Ngài đã thành Phật hiệu Chánh Pháp Minh nhưng vì nguyện lực đại bi nên mới hiện thân là Quán Thế Âm để độ chúng sanh.

Khi một vị Bồ-tát hay vị thánh thị hiện tức là sanh, là xuất hiện. Tất nhiên, thân thị hiện đó sẽ phải diệt (tử) theo quy luật duyên sanh. Chỉ có chân tâm thanh tịnh, không bị sanh diệt theo trần cảnh và luôn tự tạiPhật giáo Đại thừa chủ trương thuyết độ sanh theo hình thức này. Từ đó, có thể giải thích thông suốt rằng Phật hay các bậc Thánh theo nguyện lực tùy duyên vào sanh ra tử để hóa độ chúng sanh nhưng tâm luôn tự tại, không bị khổ đau.

Có sự sống là có sanh tử

Về sanh tử, có hai phần cần phải phân biệt. Một là tâm sanh diệt. Hai là thân sanh diệt. Tâm sanh diệt, như Hòa thượng Thanh Từ nói, là vọng tâm. Còn chân tâm thì thanh tịnh hằng hữu ví như cái thấy của con mắt lúc nào cũng hằng hữu dù mắt nhắm hay mở. Thân tứ đại sanh diệt thì ai cũng có thể hiểu vì nó thuộc nguyên lý vật lý. Trong kinh Phật tự thuyết(Udana) thuộc Tiểu bộ IĐức Phật dạy về lý duyên khởi như sau: “Do cái này có mặt nên cái kia có mặt, do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt, do cái này sinh nên cái kia sinh, do cái này diệt nên cái kia diệt.” Thân tứ đại đã sanh thì nó phải diệt, theo lý duyên khởi.

Theo lịch sử Đức Phật Thích Ca, Ngài chứng Niết-bàn thành Phật sau 49 ngày đêm thiền định. Kể từ khi ấy, tâm Phật luôn thanh tịnh không còn sanh diệt như vọng tâm của chúng sanhTuy nhiênthân tứ đại của Phật vẫn chịu sự chi phối bởi nguyên lý sanh diệtSuy rộng ra, khi có sự sống hiện hữu bằng thân tứ đại thì tất yếu có sự sanh tử. Đó là quy luật tự nhiên, là lý duyên khởi. Do đó, giải thoát sanh tử không có nghĩa là hoàn toàn không tồn tại ở cõi đời này hay thế giới khác.

Đạo Phật hướng đến giải thoát sanh tử, chứng Niết-bàn để sống tự tại trong cuộc đời mà làm lợi lạc quần sanhQuan niệm giải thoát sanh tử, chứng Niết-bàn ở thế giới nào đó và chỉ đạt được sau khi chết là một quan niệm cần đánh giá lại. Vì nói như thế là phủ nhận cuộc đời và giá trị đóng góp to lớn của Đức Phật Thích Ca Mâu NiĐồng thờiquan niệm ấy cũng làm cho Phật giáo trở nên siêu hình và xa lánh cuộc đời hiện hữu. Do vậy, nhận thức đúng khái niệm để hiểu đúng và tu tập đúng là quá trình rất cần đối với bất cứ ai tu tập Phật pháp.

 Thích Hạnh Chơn

___________________

(1) Từ điển Phật học Đạo Uyển;Phật Quang Đại từ điển; Từ điển Phật học Thiện Phúc.

(2) Thích Thiện Siêu. Giải thoát trong Phật giáo. <https://thuvienhoasen.org/a8567/giai-thoat-trong-phat-giao>, truy cập, 8-3-2017.

(3) Tâm Diệu. Quan niệm giải thoát trong Phật giáo và Bà-la-môn giáo. <https://thuvienhoasen.org/a7941/quan-niem-giai-thoat-trong-phat-giao-va-ba-la-mon-giao>, truy cập ngày 6-3-2017.

(4) Thích Thanh Từ. Giải thoát là cốt lõi của đạo Phật. <http://thuongchieu.net/index.php/phapthoai/suong/1823-gii-thoat-la-ct-loi-ca-o-pht>, truy cập ngày 6-3-2017.

(5) Đức Phật Thích Ca và các Thánh đệ tử A-la-hán đạt Niết-bàn, giải thoát sanh tử (về tâm) nhưng vẫn còn thân tứ đại nên thân ấy cũng phải theo quy luật sanh diệt. Khi thân các vị Thánh hoại thì được gọi là Niết-bàn vô dư.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2505)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2043)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2485)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1825)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1909)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2195)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2720)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1638)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1554)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1741)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1582)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2162)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2315)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2011)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1807)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1720)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1908)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1647)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2605)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1762)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2121)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2099)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2432)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1748)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 1923)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1804)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 1975)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2545)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3575)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2226)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2244)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1623)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1925)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2271)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2262)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2106)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3055)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2085)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2480)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2006)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1929)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2141)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2420)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 1992)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2397)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2335)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
(Xem: 2916)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1999)
Mặt trời khi xuất hiệnrạng rỡ, bừng sáng, dứt khoát xóa tan bóng tối để chiếm lĩnh cả không gian của thiên địa càn khôn. Mặt trăng thì không như vậy.
(Xem: 1900)
Từ cạnh tranh sinh tồn giữa các loài sinh vật, cho đến mâu thuẫn xã hội, hận thù tranh chấp, là những nét đặc trưng trong lịch sử tiến hóa, không chỉ riêng loài người.
(Xem: 2215)
Phật tử chúng ta được biết rằng, đã quy y Tam bảothọ trì năm giới ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant