Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sở Y Xứ

18 Tháng Ba 202215:45(Xem: 2553)
Sở Y Xứ

SỞ Y XỨ

Thích Chân Tính

 
Sở Y Xứ

Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo. Có ba quan điểm mà họ chấp nhận:

“Quan điểm thứ nhất cho rằng: Phàm có cảm giác gì về con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ, không lạc, tất cả đều do nhân nghiệp quá khứ.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Phàm có cảm giác gì về con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ, Sở y xứ không lạc, tất cả đều do nhân một tạo hóa tạo ra.

Quan điểm thứ ba cho rằng: Phàm có cảm giác gì về con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ, không lạc, tất cả đều do không nhân, không duyên”.

Quan điểm thứ nhất cho là những sự vui buồn của con người là do nhân nghiệp quá khứQuan điểm này gần giống với thuyết nhân quả trong đạo Phật. Thế nhưng, điểm khác biệt ở chỗ thuyết ngoại đạo cho rằng tất cả cảm giác con người lãnh thọ đều do nghiệp quá khứChúng ta sướng hay khổ, vui hay buồn, đẹp hay xấu, thông minh hay ngu dốt, thậm chí những việc làm trong hiện tại như sát sinhtrộm cắptà dâmnói dối, uống rượu,… đều do nghiệp quá khứCon người chỉ là sản phẩm của nghiệp quá khứ, không thể thay đổi được, thậm chí những hành động ngay trong hiện tại cũng đều là quả của quá khứ, do quá khứ tạo ra. Theo thuyết này, con người chấp nhận mà không có hướng thay đổi hoàn cảnh, không có ý chí tiến thân, vì không có căn cứ gì để phát triển được. Thầy lấy thí dụ, một người sinh ra bị mù mắt, rõ ràng đây là nghiệp quả do nhân từ quá khứđạo Phật hay ngoại đạo đều chấp nhận điều này.

Thế nhưng, đạo Phật hướng con người đến sự chuyển hóa nghiệp bằng thái độ sống tích cực. Từ đó, hoàn cảnh sống và sự vui khổ do chính con người quyết địnhChúng ta không thể chọn điều kiện và hoàn cảnh sống, nhưng mình có thể thay đổi cách thức và thái độ sống. Thầy có làm câu thơ: “Nếu không thay được thế thời, thì ta hãy đổi cuộc chơi cách nhìn”.

Từ cách nhìn và quan điểm sống tích cựcđúng đắnchúng ta dần thay đổi được hoàn cảnh, môi trường sống nhờ đó trở nên tốt đẹp hơn.

Ngoại đạo quan niệm nghiệp là một thứ gì đó bất biến, không thay đổi, không thể chuyển hóa. Chính vì cho rằng “đây là nghiệp của quá khứ” nên người ta buông trôi thả nổi, không có chí tiến thân, không quyết định chuyển hóa cuộc đời. Cùng trong một hoàn cảnh mù lòa và tăm tối, có người chấp nhận điều đó và sống mòn mỏi cho hết kiếp, không biết phải làm gì khác để cuộc đời trở nên ý nghĩa và tốt đẹp; có người khác bị mù nhưng có tư duy tích cực, vươn lên trong học tập, làm việc theo khả năng của bản thân để vượt qua số phận. Nhiều người khiếm thị học đàn, học vi tính, học những môn học gì đó phù hợp với sở thích và khả năng của họ để có được nghề nghiệp, cuộc sống tốt đẹp hơn trong tương lai. Chính nhờ sự nỗ lựccuối cùng họ cũng thành công.

Hôm trước, thầy có xem một người khiếm thị chơi đàn guitar. Chúng ta không thể tưởng tượng được một người không thấy gì lại có thể chơi đàn hay như vậy. Với tài năng đặc biệt đó, những tay chơi đàn chuyên nghiệp cũng phải kiêng nể vài phần. Nhiều người thấy ông ta chơi đàn hay quá nói: “Bao nhiêu năm học đàn, thấy ông này chơi xong muốn bỏ nghề!”. Có rất nhiều người khiếm thị chơi những loại nhạc cụ như piano, organ, guitar, kèn, trống,… rất hay. Người nào từng học qua các loại nhạc cụ này thì biết việc luyện tập khó khăn như thế nào, mình sáng mắt mà nhìn bàn phím nhiều khi còn bấm nhầm, lộn tới lộn lui, họ khiếm thị mà chơi được như thế chắc chắn cần phải có một sự nỗ lực rất lớn, dành ra nhiều thời gian và công sức để luyện tập. Chưa kể, có những người mù dạy tiếng Anh, vi tính, là vận động viên thể thao nổi tiếngđơn giản là họ làm những nghề đan lát, thêu thùa hay thủ công mỹ nghệ để kiếm tiền nuôi sống bản thân, không để bị lệ thuộc vào người khác.

Theo thuyết nghiệp báo, đó là họ đang thay đổi nghiệp, nhờ sự cố gắng của bản thân để thay đổi hoàn cảnh sống.

Ngoại đạo cho rằng, tất cả vui, buồn, sướng, khổ đều do quá khứ, sẽ khiến cho con người ta sống trên cuộc đời này một cách thụ động, không có ý chí tiến thân, không thay đổi hoàn cảnh.

Nghiệp trong đạo Phật là một sự tương quan nhân quả trong cả ba thời quá khứ – hiện tại – vị laiChúng ta không thể thay đổi được những nghiệp từng làm trong quá khứ, nhưng mình có khả năng tạo ra nhân mới ngay trong hiện tại, nhờ đó có được những lợi ích tốt đẹp ở tương lai. Thậm chí, ngay trong đời sống này, nếu chúng ta tạo tác nhân thiện hay ác sẽ tác động đến quả của nghiệp từng làm trong quá khứ, giúp cản trở hay hỗ trợ cho quả phát sinh như thế nào.

Không phải đời sống này bị chi phối hoàn toàn bởi nghiệp quá khứ. Nhiều người đổ thừa “tại nghiệp”, “do số phận”,… Chính vì chấp chặt vào tà kiến đó mà người ta có câu nói: “Làm cho lắm cũng mắm với cà, làm tà tà cũng cà với mắm”. Khi có ý nghĩ sai lầm, cho rằng cuộc đời được định sẵn, chúng ta sống một cách thờ ơ, buông xuôi, cuộc đời này ra sao cũng được, vì có cố gắng cũng không thay đổi được gì, từ đó cuộc đời mình ngày càng đi xuống.

Đạo Phật nói về nghiệp nhân của quá khứ, hình thành nên kết quả trong hiện tại, nhưng đạo Phật cũng nói rằng hiện tại là nhân và quả sẽ trổ trong tương lai. Tương lai đó có thể là ngày mai, tháng sau, năm sau,… Do đó, cuộc đời buồn, vui, sướng, khổ vừa do quá khứ xa xôi nào đó, nhưng một phần cũng do tác động đến từ hiện tại này. Không phải chúng ta ngồi đó đổ thừa toàn bộ cho nghiệp quá khứ.

Hiện tại, dịch bệnh Covid-19 đang hoành hành, mình có việc phải di chuyển và vô tình đi chung chiếc máy bay với một người có bệnh, mình bị lây nhiễm vi rút, đây đúng là do nghiệp quá khứ. Ngược lại, mình không phải làm gì, không phải đi đâu xa. Chính phủ đã cảnh báo mình không được tập trung đông người, không đi vào những nơi ăn chơi như vũ trường, bar, club, karaoke, vậy mà mình vẫn bất chấp lệnh phong tỏa để tụ tập ăn chơi, thế rồi mình bị bệnh, đó là do chúng ta hành động không đúng và quyết định sai tại thời điểm hiện tại, không phải do nghiệp quá khứ.

Hai điều này khác nhau, chúng ta phải phân biệt rõ ràng như vậy. Đừng theo tư tưởng của ngoại đạo rồi cái gì mình cũng đổ thừa tại nghiệp. Đức Phật không chấp nhận thuyết định mệnh, không đồng tình với việc đổ lỗi hoàn toàn cho quá khứ. Thuyết này mới nghe tưởng giống với tư tưởng nghiệp trong Phật giáo, do đó Phật tử đôi lúc cũng bị hiểu lầm.

Chuyện gì cũng đổ thừa cho nghiệp, chuyện gì cũng nói tại quá khứ, mình làm biếng cũng đổ thừa cho hoàn cảnh.

Hiện tại quyết định cho quá khứ và tương lai. Vì sao lại như thế? Hôm nay, mình tu tập tốt nghĩa là đang có một tương lai đẹp của ngày hôm qua và có một quá khứ đẹp của ngày mai. Ngày hôm nay, chúng ta gieo một nhân lành, tức là mình có một quá khứ tốt và một tương lai tốt. Thí dụ hôm nay là thứ Bảy, mình làm được một điều tốt, nghĩa là hôm qua thứ Sáu mình có một tương lai tốt là hôm nay, ngày mai là Chủ nhật thì mình có một quá khứ tốt cũng là hôm nay. Thứ nữa, nếu việc làm hôm nay ngày mai trổ quả liền và mình đã có quá khứ xấu thì trong tương lai là ngày mai (Chủ nhật), mình sẽ phải chịu quả xấu. Như vậy, quá khứ nằm ở ngay hiện tại này chứ không phải ở đâu xa xôi.

Đôi khi, mình là Phật tử mà cứ mang lấy tà kiến, gặp chuyện gì cũng đổ thừa cho nghiệp. Mình sát sinh cũng nói là do nghiệp, trộm cắp nói tại nghiệp, tà dâm cũng là do nghiệp, nói dối cũng là do nghiệp, uống rượu cũng là do nghiệp,... Điều này đức Phật không công nhận.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Phàm có cảm giác gì về con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ, không lạc, tất cả đều do nhân một tạo hóa tạo ra. Thuyết này đức Phật cũng không chấp nhận.

Người ta cho rằng có một đấng sáng tạo ra trời đất, vạn vậtcon ngườiĐấng sáng tạo toàn năng có quyền quyết định tất cả. Bất cứ ai sinh lên trời, xuống địa ngục, được ban phước hay bị giáng họa, đều do đấng sáng tạoĐức Phật nói nếu điều đó là thật thì đấng sáng tạo đã quá tàn nhẫn và bất công.

Vì sao vậy? Vì vị ấy đã tạo ra một thế giới không tốt đẹp, một nhân loại không công bằng, đầy thiên vị.

Thế nào là tạo ra một thế giới không tốt đẹp? Thế giới đầy những thiên tai: động đất, sóng thần, bão lụt, những bệnh nan y như ung thư, AIDS đã đem đến biết bao điều bất hạnh cho nhân loại, cứ vài năm lại có những đợt dịch bệnh mới, những chủng vi rút mới đe dọa đến tính mạng con người.

Nếu đấng Thượng đế hay hóa công nào đó có quyền năng tạo ra tất cả, tại sao lại tạo ra những thứ nguy hiểm và gây hại như thế?

Thế nào là tạo ra một nhân loại không công bằng, đầy thiên vị? Con người sinh ra khác biệt nhau về hoàn cảnhdung mạođịa vị: người đẹp, người xấu, người giàu, người nghèo, người sang, người hèn, người lành lặn, người tàn tật, người không có mắt, người không có tay, người không có chân, người có tai mà không nghe được, người có miệng mà không nói được, người có đầu nhưng không suy nghĩ được. Đối với những người sinh ra trong nỗi bất hạnh, họ sẽ nghĩ gì về đấng sáng tạo? Thí dụ, người bình thường sẽ cảm ơn đấng sáng tạo đã cho mình có đầy đủ chân, tay, mắt, mũi, mọi điều được tốt đẹp như thế này. Nhưng còn người khuyết tật, tàn tật, mù, điếc, câm, ngọng,… thì sao? Thầy nghĩ, chắc những người này oán trách đấng sáng tạo chủ này nhiều lắm! Thậm chí, những khi buồn bực họ còn chửi rủathan thở: “Tại sao ông trời lại sinh ra tôi như thế này? Tại sao ông sinh ra người khác tốt đẹp mà bắt tôi phải tàn tật, chịu nhiều đau khổ”?

Thế giới này vui ít, khổ nhiều. Loài người có những sự khác biệt nhau trên nhiều lĩnh vực. Như vậy, nếu có đấng sáng tạo thì đấng ấy không phải là người tốt, rất bất công, thiên vị, không đem lại những điều tốt đẹp cho mọi người. Nếu đấng sáng tạo có quyền năng tuyệt đối đã tạo ra một thế giới hoàn toàn tốt đẹp, những con người hoàn hảo, không phải người đẹp, người xấu, người giàu, người nghèo, người sướng, người khổ, người thông minh, người ngu dốt, người đầy đủ lục căn, người khuyết tật, người gặp bất hạnh từ lúc mới sinh ra cho đến chết.

Chúng ta không thể chấp nhận hay tin tưởng vào một đấng sáng tạo như vậy. Một số tôn giáo tin tưởng vào một đấng sáng tạo, một giáo chủ có quyền năng. Rất nhiều người đã tìm đến các tôn giáo ấy để tìm nơi nương tựa cho đời sống tinh thần, muốn nhận lấy sự cứu rỗi, ban ơn.

Người ta có niềm tin sâu sắc rằng đấng giáo chủ toàn năng có thể sáng tạo ra tất cả, có thể ban phước cho mọi người, có thể cứu vớt cho nhân loại. Bây giờ, dịch bệnh Covid-19 đang hoành hành khắp nơi, đấng toàn năng ở đâu sao không ra tay cứu giúp? Chúng ta nhìn vào thực tế, nếu các vị tín đồ của những tôn giáo này ngồi họp lại, cầu cho đấng sáng tạo của mình cứu thếnhân loại liệu có vượt qua dịch bệnh được không?

 Nếu không có vắc xin, nếu người bệnh không chịu chữa trị, không có những biện pháp phòng tránh dịch, chẳng qua tất cả chỉ là ảo tưởng.

Một số nhà triết học phương Tây sau này có đưa ra câu nói: “Con người sinh ra Thượng đế chứ không phải Thượng đế sinh ra con người”. Nhiều khi chúng ta tưởng tượng có một ông Thượng đế, vị sáng tạo chủ sinh ra con người, tạo ra địa cầu. Đó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Chính con người sinh ra Thượng đế, sinh ra sáng tạo chủ. Những người ban đầu nghĩ ra rồi đặt cho sản phẩm sáng tạo của mình cái tên như thế, con người quay lại tin tưởng và cầu nguyện vào đấng thiêng liêng do chính họ tạo ra. Chẳng có vị hóa công nào cả.

Từ hơn hai thiên niên kỷ trước, đức Phật đã khẳng định không có một đấng sáng tạo nào cả, không chấp nhận được một tạo hóa có thể ban ơn giáng họa cho con người.

Quan điểm thứ ba cho rằng: Phàm có cảm giác gì về con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ, không lạc, tất cả đều do không nhân, không duyên. Điều này hết sức sai lầm. Không có điều gì nằm ngoài quy luật nhân quả, làm sao có chuyện tự nhiên được. Con người có mặt trên cuộc đời cũng do tinh cha huyết mẹ, dưỡng chất, thức tái sinh. Sự xuất hiện của một chúng sinh phải có sự kết hợp của rất nhiều điều kiện.

Trong đạo Phật, ngoài những giá trị vật chất còn có yếu tố tinh thầnYếu tố vật chất là sắc, yếu tố tinh thần là danh, phân tích rộng ra là ngũ uẩn, phải hội đủ các duyên mới thành ra con ngườiChúng ta nhìn quả mít, đâu thể nói rằng quả mít do tự nhiên sinh. Đầu tiên phải có hạt giống mít, hạt phải được gieo xuống đất, đủ độ ẩm mới lên cây rồi trải qua một thời gian cây ra hoa, kết quả chúng ta mới có trái mít, không thể nào nói tự nhiên hay ngẫu nhiên được.

Thuyết tự nhiên sinh hết sức ấu trĩ, không thể nào chấp nhận được. Người đưa ra thuyết này tin rằng không có nhân, không có quả, tất cả đều là tự nhiên. Làm ác cũng là tự nhiên mà làm thiện cũng là tự nhiên, tốt là tự nhiên mà xấu cũng là tự nhiên, giết người là tự nhiên và cướp của cũng là tự nhiên, hiếp dâm cũng là tự nhiên,… cái gì cũng là tự nhiênngẫu nhiên. Điều này nghe không chấp nhận được, thầy không hiểu tại sao vẫn có rất nhiều người tin được chủ thuyết như thế, không những thời đức Phật còn tại thế mà cho đến bây giờ, một số người gặp chuyện gì cũng cho là “tự nhiên”.

Bài kinh này rất sâu sắc, chúng ta nên tìm hiểu chứ đừng xem thườngThời đại nào cũng vậy, những tà kiếnquan điểmtriết thuyết sai lầm vẫn cứ xuất hiện khắp nơi. Không phải những chủ thuyết này chỉ có ở thời đức Phật, mà ngày nay vẫn có dưới những hình thức khác. Dù khoa học đã phát triển rực rỡ, nhưng bao nhiêu người vẫn cứ tin vào một đấng toàn quyền, cầu nguyện ngày đêm để được ban ơn và bảo vệCực đoan khác là những người sống theo duy vậtchủ nghĩa hiện sinh, chết là hết, không còn gì cả. Không rơi vào cái bẫy của thường kiến thì người ta mắc vào đoạn kiến. Không phải biết rõ về khoa học hay văn minh là người ta có thể biết rõ về mọi thứ, không còn tà kiến.

Cuối bài kinhđức Phật nói về quan điểm của đạo Phật. Ngài trình bày nói về sáu giới, sáu xúc xứ, mười tám ý cận hành và Tứ đế. Sáu giới đó là đất, nước, gió, lửa, không, thức. Sáu xúc xứ là nhãn xúc xứ, nhĩ xúc xứ, tỷ xúc xứ, thiệt xúc xứ, thân xúc xứ, ý xúc xứ. Mười tám ý cận hành: Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, có ba loại cảm thọ là hỷ, ưu và xả sinh khởi, nương vào các căn tương ứng, tổng cộng là mười tám ý cận hànhTứ diệu đế là khổ, tập, diệt, đạo.

Phần cuối bài kinh này là sự tổng hợp của cả giáo lý Duyên khởi và Tứ đế.

"Bốn Thánh đế này, này các tỳ kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa môn, các Bà la môn có trí quở trách. Điều đã được nói đến, chính do duyên nào đã được nói đến? Do chấp thủ sáu giới, này các tỳ kheo, nên có nhập thai. Do có nhập thai, nên có danh sắc. Do duyên danh sắc, nên có sáu xứ. Do duyên sáu xứ, nên có xúc. Do duyên xúc, nên có thọ. Với người có cảm thọ, này các tỳ kheo, Ta nêu rõ: "Đây là khổ", Ta nêu rõ: "Đây là khổ tập”, Ta nêu rõ: "Đây là khổ diệt", Ta nêu rõ: "Đây là con đường đưa đến khổ diệt".

– Và này các tỳ kheo, thế nào là khổ Thánh đế? Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi, khổ, ưu, não là khổ. Điều mong cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ. Này các tỳ kheo, đây là khổ Thánh đế. – Và này các tỳ kheo, thế nào là Thánh đế về khổ tập? Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên sanh sắc, danh sắc duyên sáu xứsáu xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não. Như vầy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Này các tỳ kheo, đây gọi là Thánh đế về khổ tập.

– Và này các tỳ kheo, thế nào là Thánh đế về khổ diệt? Do vô minh diệt không có tàn dư, nên các hành diệt. Do hành diệt, nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não đều diệt. Như vậy là sự đoạn diệt toàn bộ của khổ uẩn này. Này các tỳ kheo, đây gọi là Thánh đế về khổ diệt.

– Và này các tỳ kheo, thế nào là Thánh đế về con đường đưa đến khổ diệt? Đây là Thánh đạo tám ngành, tức là Chính tri kiếnChính tư duyChính ngữChính nghiệpChính mạng, Chính tinh tấnChính niệmChính định. Này các tỳ kheo, đây gọi là Thánh đế về con đường đưa đến khổ diệtBốn Thánh đế này, này các tỳ kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không có uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa môn, các Bà la môn có trí quở trách. Điều đã được nói đến, chính do duyên này được nói đến".

Đức Phật chỉ nói những điều này, nhưng đã bao hàm hết tất cả vấn đề nhân sinh và vũ trụ. Người thấy và biết được Tứ đếhiểu rõ về mắt xích nhân – duyên – quả của Mười hai nhân duyên sẽ không còn tà kiến về sự hiện hữu, không còn những thấy sai chấp lầm về vạn pháp ở đời. Không có đấng thiêng liêngsáng tạo hiện hữu, cũng không có gì là tự nhiên sinh, tất cả bị chi phối bởi nhân duyênnghiệp báo. Thuyết của đức Phật rõ ràng, khoa học, còn tư tưởng ngoại đạo thì phiến diệnthiên kiến, cục bộ.

Ngày 28 tháng 3 năm 2020

(Trích từ sách: Đèn Tâm Tỏa Rạng)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 770)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1096)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 994)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1335)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 754)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 819)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 821)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 978)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 919)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 846)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1002)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 947)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1002)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1139)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1604)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1246)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1103)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 963)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1262)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1365)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1319)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1464)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1197)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant