Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sanh Xứ Và Trụ Xứ Của Bồ Tát

31 Tháng Ba 202216:15(Xem: 2075)
Sanh Xứ Và Trụ Xứ Của Bồ Tát

Sanh Xứ Và Trụ Xứ Của Bồ Tát

Nguyễn Thế Đăng


chua


Sau khi đồng tử Thiện Tài dậy từ tam muội thấy tất cả cảnh giới trang nghiêm tự tại trong lầu gác của Đức Di Lặc, ngài nói:

Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát, thấy được cung điện trang nghiêm do thần lực Bồ tát gia trì, do trợ đạo lưu xuất, do nguyện, trí hiển hiện. Ngươi thấy Bồ tát hạnh, nghe Bồ tát pháp, biết Bồ tát đức, rõ Bồ tát nguyện.

Thiện Tài thưa: Đúng vậy, bạch đại thánh. Đây là lực oai thần của thiện tri thức gia bị khiến cho ghi nhớ. Bạch đại thánh, môn giải thoát này tên là gì?

Bồ tát Di Lặc nói: Thiện nam tử! Môn giải thoát này tên Trí Nhập Tạng Trang Nghiêm Tất Cả Cảnh Giới Ba Đời Chẳng Quên Mất. Thiện nam tử! Trong môn giải thoát này có chẳng thể nói chẳng thể nói hết môn giải thoát, là chỗ chứng đắc của Bồ tát nhất sanh bổ xứ”.

Nhờ thân lực gia trì của Bồ tát Di Lặc hợp cùng trí huệđại bi và công đức qua thực hành Bồ tát hạnh của mình, đồng tử Thiện Tài nhập vào Tạng trang nghiêm tất cả cảnh giới ba đời chẳng quên mất. Tạng trang nghiêm tất cả cảnh giới ba đời này chính là Tạng pháp giới lưu giữ tất cả công đức của ba đời. Tất cả Tạng thức lưu giữ tất cả dấu in tạo thành sanh tử đã chuyển thành Trí, đây là chỗ chứng đắc của một Bồ tát nhất sanh bổ xứ, tức là Bồ tát một đời nữa thành Phật. Thức chuyển thành Trí là thức chuyển về bản tánh của chúng là tánh Không, nhờ đó thức được tịnh hóa. Do đó thức có biểu hiện thành tướng nhưng thức thanh tịnh thì tướng thanh tịnh. Thức và tướng thanh tịnh là sự biểu hiện của tánh Không, “sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Do đó Kinh nói đây là “môn giải thoát, có chẳng thể nói chẳng thể nói hết môn giải thoát”.

 

Thiện Tài hỏi: Sự trang nghiêm này đi về đâu?

Bồ tát Di Lặc đáp: Đi về chỗ từ đó nó đến.

Thiện Tài hỏi: Từ chỗ nào đến?

Bồ tát Di Lặc nói: Từ trong thần lực trí huệ của Bồ tát mà đến, y thần lực trí huệ của Bồ tát mà an trụ; không có chỗ đi cũng không có chỗ trụ, chẳng phải tích tập, chẳng phải thường hằngxa lìa tất cả.

Thiện nam tử! Như Long vương làm mưa xuống: chẳng từ tâm ra, chẳng có tích tập mà chẳng phải là chẳng thấy, chỉ do niệm lực của tâm Long vương mà mưa tuôn xuống khắp thiên hạCảnh giới như vậy chẳng thể nghĩ bàn.

Thiện nam tử! Những sự trang nghiêm kia cũng giống như vậy, chẳng trụ ở trong cũng chẳng trụ ở ngoài mà chẳng phải chẳng thấy, chỉ do nơi lực oai thần của Bồ tát và lực thiện căn của ngươi mà thấy sự như vậy.

Này thiện nam tử! Như nhà huyễn thuật làm những sự huyễn: không từ đâu đến, không đi đến đâu. Dù không đến không đi mà do lực huyễn nên thấy được rõ ràng.

Những sự trang nghiêm này cũng giống như vậy, không từ đâu đến cũng không đi đến đâu. Dù không đến không đi nhưng do Bồ tát học tập lực trí huyễn chẳng thể nghĩ bàn và do lực đại nguyện từ xưa mà hiển hiện như vậy”.

Những sự trang nghiêm, mà như ở trước nói “cảnh giới trang nghiêm tự tại”, từ trong thần lực trí huệ Bồ tát mà đến, y nơi thần lực của Bồ tát mà trụ, không có chỗ đi cũng không có chỗ trụ, chẳng phải tập hợp, chẳng phải thường hằngxa lìa tất cả. Không từ đâu đến, không đi về đâu, những sự trang nghiêm ấy chính là tánh Không thanh tịnh. Những sự trang nghiêm tự tại ấy xuất hiện trên nền tảng tánh Không, y nơi thần lực trí huệ của Bồ tát mà xuất hiện, mà đến và trụ. Thần lực trí huệ ấy là lực trí huyễn chẳng thể nghĩ bàn cùng với lực đại nguyện từ xưa mà hiển hiệnxuất hiện trên nền tảng tánh Không “như huyễn, như mộng, như bóng, như hình, trọn không thành tựu”. Và bởi vì tánh Không vốn là thanh tịnhgiải thoát nên những sự xuất hiện ấy được thấy là trang nghiêmtự tại. Những sự trang nghiêm ấy là sự biểu lộ của tánh Không thanh tịnh.

Những cảnh giới trang nghiêm tự tại ấy không nương y vào cảnh giới thế gian mà xuất hiện, chúng chỉ nương y vào tâm Bồ tát mà xuất hiện, như mưa là do “niệm lực của tâm Long vương” mà rơi xuống. Tâm Bồ tát là sự thành tựu của hai tích tập trí huệ (trí huyễn) và tích tập công đức (những sự trang nghiêm) mà xuất hiện.

 

Đồng tử Thiện Tài thưa: Đại thánh từ xứ nào đến? Bồ tát Di Lặc nói: Chư Bồ tát không đến không đi, như vậy mà đến. Không đi không trụ (dừng ở), như vậy mà đến. Không xứ sở, không bám chấp, không sanh, không trụ, không dời, không động, không khởi, không luyến, không bám, không nghiệp, không báo, không khởi, không diệt, không đoạn, không thường, như vậy mà đến.

Này thiện nam tử! Bồ tát từ nơi đại bi mà đến, vì muốn điều phục các chúng sanh. Từ nơi đại từ mà đến vì muốn cứu hộ các chúng sanh. Từ nơi tịnh giới mà đến vì tùy theo chỗ thích mà thọ sanh. Từ nơi đại nguyện mà đến, vì nguyện lực thuở xưa gia trì. Từ nơi thần thông mà đến vì tùy thích mà hiện ở tất cả xứ. Từ nơi không lay động mà đến, vì thường chẳng rời lìa tất cả Phật. Từ nơi không lấy bỏ mà đến vì thân tâm chẳng bị bắt buộc phải qua lại. Từ nơi phương tiện trí huệ mà đến, vì tùy thuận tất cả chúng sanh. Từ nơi biến hóa thị hiện mà đến vì giống như bóng hình mà hóa hiện”.

Các Bồ tát đã chứng Pháp thân tánh Không nên các vị từ Pháp thân tánh Không mà đến, “không đến, không đi, không trụ mà đến; không xứ, không trụ, không động, không khởi, không luyến, không bám, không nghiệp, không báo…”. Các Bồ tát hoàn toàn tự do trong việc đến và đi, trong việc “tùy chỗ thích mà thọ sanh” là những vị đã ở trong Địa thứ Tám của Pháp thânBất động địa hay Vô công dụng đạo.

Khi ấy Bồ tát đã thanh tịnh, đã thoát khỏi nghiệp sanh tử luân hồi, “vì thân tâm chẳng bị bắt buộc phải qua lại”. Khi ấy Bồ tát đến từ nơi đại biđại từtịnh giớiđại nguyệnthần thôngbiến hóathị hiệnphương tiện trí huệ mà đến, để giúp đỡ cứu hộ các chúng sanh. Với những đức tính này, Bồ tát từ Pháp thân tánh Không thọ sanh, biến hóa thị hiện thành Báo thân và Hóa thân làm lợi lạc cho các chúng sanh.

Tóm lại Bồ tát từ tánh Không mà đến, đó là trí huệ giải thoát khỏi sanh tửĐồng thời vì muốn cứu độ chúng sanh đang ở trong sanh tử mà đến, đó là đại từ đại biBồ tát là trí huệ tánh Không và đại bi cứu hộ, đó là sanh xứ và trụ xứ của Bồ tát.

Thọ sanh, tái sanh làm Hóa thân nhưng chẳng “lìa tất cả Phật”, nghĩa là chẳng hề lìa “Pháp thân của tất cả chư Phật”. Chẳng hề lìa Pháp thân tánh Không vốn giải thoát, cho nên Bồ tát làm việc ở thế gian sanh tử mà vẫn giải thoát, vì “từ nơi không động lay mà lại”, sống và làm việc trong “nơi không động lay”, Bất động địa. Đến, ở, làm việc và ra đi “như những hình bóng (trong tấm gương) mà hóa hiện”. Bóng, hình hóa thân chẳng bao giờ lìa tấm gương Pháp thân Đại viên cảnh trí, do đó bóng hình luôn luôn giải thoát như tấm gương Pháp thân.

 

Nhưng thiện nam tử! Ngươi hỏi ta từ đâu đến? Thiện nam tử, ta từ sanh xứ là nước Ma La Đề mà đến nơi đây. Thiện nam tử, nước ấy có thôn làng tên là Phòng Xá, có con trưởng giả tên là Cù Ba La, vì để giáo hóa người ấy vào Phật pháp mà ta trụ nơi đó. Lại vì tất cả nhân dân ở xứ đó đáng được hóa độ mà thuyết pháp cho. Lại cũng vì cha mẹ quyến thuộc bà la môn mà thuyết pháp Đại thừa cho được tiến nhập nên trụ nơi đó, rồi từ từ đến đây”.

Lúc này, Đức Di Lặc hóa thân nơi sanh xứ là nước Ba La Đề, làm lợi lạc cho gia đình quyến thuộc và mọi người ở đó. Pháp thân thì không đến không đi không trụ, không có không gian và thời gian, còn thị hiện ra hóa thân thì có hình tướng, có thời gian không gian, có đến có đi có trụ mới làm lợi lạc cụ thể cho chúng sanh được.

 

Đồng tử Thiện Tài thưa: Bạch Đại thánh! Những gì là sanh xứ của Bồ tát?

Bồ tát Di Lặc nói: Thiện nam tử! Bồ tát có mười loại sanh xứ (chỗ sanh).

Bồ đề tâm là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà Bồ tátThâm tâm là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà thiện tri thức. Các địa là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà các ba la mậtĐại nguyện là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà diệu hạnhĐại bi là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà bốn nhiếp pháp. Như lý quán sát là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà Bát nhã ba la mậtĐại thừa là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà phương tiện thiện xảoGiáo hóa chúng sanh là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà chư Phật. Trí huệ phương tiện là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà Vô sanh pháp nhẫnTu hành tất cả pháp là sanh xứ của Bồ tát vì sanh vào nhà tất cả Như Lai ba đời.

Này thiện nam tử! Đại Bồ tát lấy Bát nhã ba la mật làm mẹ, phương tiện thiên xảo làm cha, năm ba la mật làm nhũ mẫu, người nuôi dưỡng, người giúp việc… Thiện tri thức làm thầy dạy, tất cả Bồ đề phần làm bạn, tất cả pháp lành làm quyến thuộc, tất cả Bồ tát làm huynh đệBồ đề tâm làm nhà, như lý tu hành là gia pháp, các địa làm gia xứ, các nhẫn làm gia tộcđại nguyện làm gia giáo, đầy đủ các hạnh làm thuận gia pháp, khuyên phát Đại thừa tâm làm nối gia nghiệp, nước pháp rưới đầu Bồ tát nhất sanh bổ xứ làm hoàng thái tửthành tựu Bồ đề là thanh tịnh gia tộc”.

Bồ tát là vị “siêu phàm phu địa, nhập Bồ tát vị, sanh nhà Như Lai, trụ chủng tánh Phật”, tức là làm Phật tử, con Phật. Muốn như thế phải thực hành tất cả pháp Đại thừa.

Ở đoạn này nói nhiều đến chữ “nhà”, “gia”. Muốn vào nhà Phật, ở trong nhà Phật, làm con Phật, phải có đủ phẩm tính của “gia tộc Phật”.

Bồ tát là Phật tử khi vào được các địa trong Mười Địa Pháp thân, gọi là nhập Bồ tát vị, sanh vào nhà Như Lai, tất cả Bồ tát làm huynh đệ. Sau đó “nối gia nghiệp”, cho đến “nước pháp rưới đầu, làm hoàng thái tửBồ tát nhất sanh bổ xứ” như Đức Di Lặc.

Tóm lại con đường Bồ tát là “tự giác, giác thagiác hạnh viên mãn”.

 

Này thiện nam tử! Đại Bồ tát sanh nhà tôn thắng như vậy rồi, vì biết tất cả pháp như bóng hình nên đối với thế gian không còn ghét chê. Vì biết tất cả pháp như biến hóa nên không nhiễm trước các cõi hữu lậu. Vì biết tất cả pháp không có ngã nên giáo hóa chúng sanh không mệt chán. Vì đại từ bi là thể tánh nên nhiếp thọ chúng sanh chẳng biết khổ nhọc. Vì thông đạt sanh tử giống như giấc mộng nên trải qua tất cả kiếp mà không ngại sợ. Vì biết rõ các uẩn đều như huyễn nên thị hiện thọ sanh mà không chán mỏi. Vì biết các giới, xứ là đồng pháp giới nên nơi các cảnh giới không bị hoại diệt. Vì biết tất cả tưởng như dương diệm nên vào trong các nẻo sanh tử mà chẳng sanh điên đảo mê lầm. Vì đạt tất cả pháp đều như huyễn nên vào cảnh giới mà chẳng sanh nhiễm trước. Vì biết Pháp thân nên tất cả phiền não chẳng thể lừa dối. Vì đắc tự tại nên nơi tất cả đường sanh tử đều thông đạt vô ngại”.

Con đường Bồ tát tạo thành bằng hai yếu tố chính: trí huệ và đại bi.

Trí huệ, mà ở đây gọi là trí huyễn, là nhìn thấy sanh tử và chúng sanh trong đó là tánh Không để có thể tự giải thoát cho mình và giải thoát cho người khi đang sống trong sanh tử mà không mệt mỏichán ghétsợ hãi.

Trí huyễn là “biết tất cả các pháp như bóng hình (trong gương tâm), biết chúng như biến hóa (của tâm), thông đạt sanh tử như giấc mộng, biết các uẩn tạo thành mình và chúng sanh đều không có ngã và như huyễn, biết tất cả pháp là đồng pháp giới (nên thể nhập pháp giới của pháp thân)”…

Đại từ bi là thể tánh của Bồ tát, của chúng sanh, và của toàn bộ pháp giớichứng nhập được như vậy nên không khổ nhọc, vô ngại với sanh tử như mộng như huyễnĐại từ bi là thể tánh của pháp giớichúng sanh, nên mình-người không cách hở, cùng một thể tánh, do đó mà không mệt mỏi vì chúng sanh trong sanh tử. Đây là điều Kinh Bồ tát Hư Không Tạng Bổn Nguyện nói là “đồng thể đại bi”.

Với trí huệ và đại biBồ tát được tự tại với sanh tử và với cả Niết bàn không có sanh tử và chúng sanh của bậc Thanh Văn.

 

Thiện nam tử! Thân ta sanh khắp tất cả pháp giới,  đồng với sắc tướng sai biệt của tất cả chúng sanh, đồng với ngôn âm sai khác của tất cả chúng sanh, đồng với danh hiệu đủ loại của tất cả chúng sanh, đồng với cử chỉ và sở thích của tất cả chúng sanhtùy thuận thế gian giáo hóa điều phụcthị hiện thọ sanh đồng với tất cả chúng sanh thanh tịnh, đồng với tất cả sự nghiệp chúng sanh phàm phu làm, đồng với tưởng của tất cả chúng sanh, đồng với thệ nguyện của tất cả Bồ tát, mà hiện thân mình đầy khắp pháp giới”.

Đức Di Lặc là Bồ tát nhất sanh bổ xứ, đã chứng hoàn toàn Pháp thân tánh Không. Bởi vì tánh Không là bản tánh của mọi sự, mọi chúng sanh, nên hiện hữu trong và thông suốt qua tất cả mọi sự, mọi chúng sanh, mọi không gian và thời gian. Cho nên, Bồ tát chứng hoàn toàn tánh Không thì “sanh khắp tất cả pháp giới, đồng với sắc tướng sai biệt của tất cả chúng sanh, đồng với tất cả sự nghiệp chúng sanh phàm phu làm”

Như đại dương thì đồng một tánh nước với tất cả mọi làn sóng, nhưng tất cả mọi làn sóng chẳng thể làm ô nhiễmbiến chất đại dươngđại dương luôn luôn vẫn là tánh nước. Như tấm gương (Đại viên cảnh trí, trí như tấm gương lớn tròn sáng) thì đồng với tất cả các bóng gương vì đều cùng một mặt gương, nhưng các bóng dù có biến hóa thế nào cũng không thể làm nhiễm ôbiến chất tấm gương. Các bóng xuất hiện trên tấm gương nhưng chẳng thể dính cứng vào tấm gương, gương mãi mãi trong sáng và sạch hết mọi hình bóng.

Bồ tát là một với tánh Không thì ở khắp trong sanh tử và đồng với tất cả sanh tử nhưng chẳng bao giờ nhiễm ô bởi sanh tửChúng sanh có bao nhiêu lời nói, bao nhiêu ý tưởng, bao nhiêu sự nghiệp xấu tốt, bao nhiêu cử chỉ sở thíchBồ tát đều đồng, nhưng chẳng bao giờ trở thành những cái đó, chẳng bao giờ “là” những cái đó.

Tánh Không vô sanh đồng khởi (co-emerge) với tất cả các cái sanh nhưng mãi mãi vẫn là vô sanh. Đó là Bồ tát hạnh rốt ráo.

“Tùy thuận thế gian, giáo hóa điều phục”, “thị hiện thọ sanh đồng với tất cả chúng sanh thanh tịnh”, “đồng với thệ nguyện của tất cả Bồ tát”; đây là sự “tùy thuận” rốt ráo, “thị hiện” rốt ráo, “thệ nguyện” rốt ráo, vì đồng với tất cả phàm thánh, tất cả sanh tử và Niết bàn.

“Hiện thân mình đầy khắp pháp giới” vì ngài đã là một với Pháp thân tánh Không, tức là một với toàn thể pháp giới.

 

Thiện nam tử! Ta vì hóa độ những người thuở xưa cùng ta đồng tu các hạnh mà nay thối thất Bồ đề tâm, cũng để giáo hóa cha mẹ thân thuộc, cũng để giáo hóa các bà la môn khiến họ bỏ tính kiêu mạn chủng tộc để được sanh trong chủng tánh Như Lai, nên sanh vào cõi Diêm Phù Đề nước Ba La Đề, nhà bà la môn.

Này thiện nam tử! Ta trụ trong đại lầu gác này, tùy tâm sở thích của chúng sanh mà dùng nhiều phương tiện giáo hóa điều phụcThiện nam tử! ta vì tùy thuận tâm chúng sanh, vì thành thục chư thiên đồng hành nơi cung trời Đâu Suất, vì thị hiện phước trí biến hóa trang nghiêm của Bồ tát, vượt khỏi tất cả các trời dục giới khiến họ bỏ lìa các dục lạc, vì cho họ biết hữu vi đều vô thường, vì cho họ biết chư thiên hễ có thịnh tất có suy, vì muốn thì hiện pháp môn đại trí lúc sắp giáng sanh cùng với các Bồ tát nhất sanh bổ xứ với nhau đàm luận, vì muốn nhiếp hóa các người đồng hành, vì muốn giáo hóa những người còn sót lại sau đức Thích Ca Như Lai, để họ được khai ngộ như những hoa sen nở, nên khi mạng chung ta sẽ sanh lên trời Đâu Suất.

Thiện nam tử, khi bổn nguyện ta tròn đủ, thành Nhất thiết trí, chứng Vô thượng Bồ đề, ngươi và Văn Thù Sư Lợi đều được thấy ta”.

Đức Di Lặc nói cho đồng tử Thiện Tài nghe về Bồ tát hạnh của ngài trong kiếp này trước khi sanh lên cõi trời Đâu Suất. Hạnh giáo hóa của ngài không chỉ ở trái đất này mà còn đến cả những chúng sanh cõi trời, và cùng các Bồ tát nhất sanh bổ xứ khác hoằng dương Phật pháp cho đến khi thành Phật. Đây là hạnh chung của các Bồ tát, dù có cao thấp khác nhau, nhưng đều là “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”.

 

Thiện nam tử! Ngươi nên qua đến chỗ Văn Thù Sư Lợi thiện tri thức để hỏi Bồ tát như thế nào học Bồ tát hạnh, như thế nào nhập Phổ Hiền hạnh môn, thế nào thành tựu, thế nào làm rộng lớn, thế nào tùy thuận, thế nào thanh tịnh, thế nào viên mãn? Văn Thù Sư Lợi sẽ vì ngươi mà phân biệt diễn nói”.

Sau đó Bồ tát Di Lặc bảo đồng tử Thiện Tài đến gặp Bồ tát Văn Thù, trước khi đi đến với vị Bồ tát cuối cùng là ngài Phổ HiềnBồ tát Văn Thù là người đã dạy cho Thiện Tài hãy phát tâm Bồ đề, hành Bồ tát hạnhhành hương cầu đạo bắt đầu bằng cách đi về phương Nam để gặp vị thiện tri thức thứ nhất là Tỳ kheo Đức Vân

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13148)
Dù lý giải như thế nào đi nữa thì cũng dễ dàng nhận thấy là mối quan hệ tình cảm của con người là cái quan trọng nhất vượt lên trên cả tiền bạc, vật chất...
(Xem: 13357)
Ta phải thực tập chính niệm để duy trì cái thấy vô thường; cái thấy các pháp tương tác duyên khởi ở trong thế gian, đang bị vô thường bức hại...
(Xem: 17498)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 13889)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời.
(Xem: 12792)
Một vị thiền sư nọ cất túp lều tranh trong rừng sâu sống ẩn dật tu luyện không tranh đua với đời. Thiền sư tiếp xúc với cỏ cây nhiều hơn con người cho nên tâm hồn ông rất thanh thản vô vi.
(Xem: 13864)
Thanh lọc tâm mình bằng cách thiền tập hoặc niệm Phật để tiếp xúc với năng lượng tĩnh lặng từ bên ngoài lẫn bên trong là cách làm của người tin Phật, có trí.
(Xem: 11991)
Có một thứ mà khi càng cho đi thì càng có thêm nhiều, đó là lòng tốt. Có một loại năng lượng nào càng sử dụng, thậm chí càng xài phí thì càng có nhiều thêm, đó là lòng tốt.
(Xem: 11741)
Thời giansự thật, nơi bôi xóa, giấu che và hiển lộ tất cả. Trong nghĩa ấy, thời gianlịch sử. Lịch sử được làm nên từ những ánh rực rỡ và những lặng thầm, trên đường đi của nhân loại.
(Xem: 12938)
Một ngày nọ, chàng trai muốn đi xuất gia. Chàng nói ý định này với người bạn thanh mai trúc mã của mình. Nàng thiếu nữ nghe xong thoáng buồn và hỏi lại...
(Xem: 13241)
Sơ suất có thể làm hại mình, hại người, nhất là trong những quyết định quan trọng. Đó là bài học tôi nghe được từ một người thầy.
(Xem: 11787)
Dầu cuộc đời có bận rộn và nhiêu khê đến đâu, hãy nhớ dừng lại để thở, để nhìn nụ cười trong những đóa hoa, mây bay trong tách cà phê thơm...
(Xem: 16802)
Công việc sẽ chiếm phần lớn cuộc đời bạn và cách duy nhất để thành công một cách thực sự là hãy làm những việc mà bạn tin rằng đó là những việc tuyệt vời.
(Xem: 12177)
Đức Phật đã khẳng định rằng nữ giới và nam giới đều bình đẳng trong khả năng chứng ngộ, và vì lý do đó Ngài đã cho phép họ được xuất gia...
(Xem: 12582)
Hè đến, những cánh phượng nhuộm đỏ một góc đường. Ta lại bồi hồi nhớ lại ký ức xưa cũ. Con đường đất, mái nhà xiu vẹo...
(Xem: 12147)
Hành trang đi vào trong vô thường để tìm chân thường, biết huyễn mộng vẫn đi vào huyễn mộng, để tìm lại con người chân thật, con người của thảnh thơi, thanh tịnh, hạnh phúc...
(Xem: 13798)
Mỗi bước chân và mỗi cái nhìn của mình có thể chế tác được năng lượng an lạc. Mình bước tới và mình biết là mình đang chạm vào tịnh độ.
(Xem: 12220)
Hạnh phúc luôn có mặt trên những chặng đường ta đi qua chứ không phải ở cuối con đường. Hạnh phúc có thể được tìm thấy trong từng phút giây ta sống...
(Xem: 11583)
Nếu mọi người, mọi nhà đều thực hành Luật Nhân Quả họăc biết sợ Nhân Quả thì thế giới này biến thành một Cung Trời mà chẳng cần phải bôn ba tìm kiếm Thiên Đường ở đâu khác.
(Xem: 12251)
Chư Phật Bồ tát xuất hiện ở đời vì chúng sinh mà khởi đại bi tâm, khải mê khai ngộ. Các Ngài đã phát đại nguyện ban vui cứu khổ, phụng sự cho chúng sinh mà không quản nại mọi khó khăn...
(Xem: 12808)
Khi bạn đau khổ, có những vấn đề, mắc bệnh ung thư, bệnh aids, rắc rối trong mối quan hệ, bất kỳ điều gì, hãy nghĩ: “Nguyện đại dương khổ đau sinh tử của tất cả chúng sinh khô cạn.”
(Xem: 12900)
Ở đây, mình đi tìm mùa xuân của lòng người, lòng mình, nên chỉ cần ngồi thật im, thật vững chãi và chế tác năng lượng mùa xuân...
(Xem: 12042)
Để có được sự trưởng dưỡng nội tâm, chúng ta cần phải sống chậm lại, chú ý lắng nghe nhiều hơn, nói ít đi, quan tâm nhiều hơn tới tiếng nói của nội tâm mình...
(Xem: 12117)
Trong cuộc sống cần rất nhiều thiện hạnh để nâng đỡ cho tinh thầnđời sống của chúng ta. Nếu không có những thiện hạnh, chúng ta sẽ dễ sao nhãng tinh thần...
(Xem: 11449)
Một phê bình luôn phải đặt vững trên nền tảng thực tại riêng của nó – thực tại mà nhãn quan của nó làm phát lộ, cái thực tại đặc thù bởi trong cách thức đặc thù mà liên hệ đến cái thực tại...
(Xem: 11576)
VNPG không phải là một phong trào hay một giai đoạn làm ăn phát đạt nhờ mua bán giỏi, mà là một nền tảng đạo đức chuyên biệt, dung chứa những tâm nguyện cao cả...
(Xem: 11957)
Chúng ta may mắn có một đạo Phật, dưới ánh sáng của Đấng Giác ngộ với tấm lòng Từ bi và Trí tuệ, xuất hiện trên cuộc đời uế trược nầy vì lợi ích cho trời người.
(Xem: 12914)
Lắng nghe mọi người, để hiểu và thương. Đó cũng là một cách nói rằng: tôi luôn có mặt cho mọi người, nhất là những người đang khổ đau.
(Xem: 12472)
Khi mình niệm hơi thở, nụ cười, là khi mình làm cho tâm mình lắng dịu, như hồ nước không gợn sóng, có nghĩa là mình có định.
(Xem: 12901)
Giác ngộ mới là cái cần làm, trong đó trước tiên là hiểu mình, đến hiểu bản chất của cuộc sống vạn vật, rồi quay lại với cuộc sống sôi động.
(Xem: 11528)
Thịt bò nói riêng và súc vật nuôi để làm thức ăn cho con người nói chung đã và đang tổn hại môi trường sinh thái.
(Xem: 14735)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã làm rõ ràng việc chúng ta có thể tha thứ ra sao nhưng vẫn tin rằng trong ý chí tự do chọn lựa, tất cả chúng tathể không phải hành động tổn hạithực hiện những điều tốt đẹp.
(Xem: 13658)
Có một ý thức trực giác về nghiệp quả - một sự hiểu biết rằng hạnh phúc, và bất hạnh của chúng ta tùy thuộc vào hành động của chúng ta...
(Xem: 13866)
Con rùa nói: “Tôi không biết chiếc vòng vàng ở đâu? Tôi không thể nhìn thấy, nhưng tôi đã nghe nói rằng tinh túy của toàn bộ Phật giáo là sự phát triển Bồ đề tâm...
(Xem: 13659)
Một ngày, nếu dành cho Thân dăm phút thực sự ngồi yên; rồi bằng quyết tâm, biết đâu sự kỳ diệu sẽ đến, là Tâm và Ý cũng ngồi yên như Thân.
(Xem: 12904)
Dù chỉ mới là những lời giới thiệu cô đọng nhưng súc tích của mỗi vị giảng sư nhưng đại chúng đều cảm nhận được biển tuệ mênh mông của quý ngài...
(Xem: 14297)
Thù hận có thể có những lợi ích ngắn hạn trong việc thúc đẩy những hành vi vị tha nhưng về lâu về dài sẽ làm hao mòn nhân cách. - Đức Đạt Lai Lạt Ma & Paul Ekman.
(Xem: 14223)
Thông điệp từ trái tim của mỗi người sẽ là sợi dây truyền thông đến cộng đồng, bằng sự tương tác và tương tức; rằng, nếu mình phát đi tình thương thì người khác sẽ cảm nhận được...
(Xem: 19154)
Buổi sáng ra vườn, nhìn lên trời cao bồng bềnh mây trắng/ Nhìn xuống khu vườn, còn thơm ngát sương lan/ Nhìn ra đầm sen, nở rộ những cánh sen hồng...
(Xem: 13524)
Chúng ta ai cũng có sẵn trong lòng tình thương bao la, mang tình thương bao la đó mà làm việc, ta sẽ vượt mọi trở ngại bên trong và bên ngoài
(Xem: 15317)
Người thanh niên lái xe chỉ kịp bỏ vội đồng 5 xu vào cái nón mê của bà cụ rồi lại vội vã đánh xe đi, tránh những tiếng còi xe đằng sau inh ỏi.
(Xem: 13704)
Nó đến Úc, vào lúc Brisbane đang vào mùa hoa phượng tím... Những góc trời tím màu hoa. Chị nói chắc mấy cây phượng nở hoa đón em...
(Xem: 14594)
Sớm. Phố hãy còn lặng lẽ trùm chăn trong cái lạnh của màn sương dày đặc. Mây kéo về giăng kín khiến khí trời thêm buốt giá.
(Xem: 15133)
Mùa sen nở, mùa của những linh thiêng nơi thánh tích và trong lòng người. Những thông điệp được phát đi giữa mùa sen cũng là tiếng nói của lương tri con người trước hiện tại.
(Xem: 14557)
Cuộc sống là một dự án do chính mình thực hiện. Cuộc sống của bạn hôm nay là kết quả của những thái độ và sự chọn lựa của bạn trước đây.
(Xem: 13747)
Cuộc sống là một chuỗi những điều ưu tiên. Và những điều ưu tiên hàng đầu của bạn là gì? Hãy dành cho những người mà bạn yêu quý hơn 5 phút trong quỹ thời gian hằng ngày của bạn.
(Xem: 13409)
Có hai người bạn đang dạo bước trên sa mạc. Trong chuyến đi dài, hai người nói chuyện với nhau và đã có một cuộc tranh cãi gay gắt.
(Xem: 12527)
Bên trong cửa chùa, Nhân trở thành nhà làm vườn chuyên nghiệp tràn đầy niềm say mê sáng tạo cùng với nhiệt tình năng nổ của tuổi trẻ. Hắn có nhiều dự tính cho tương lai.
(Xem: 13760)
Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó...
(Xem: 12954)
“Hôm nay cá nhân tôi sống dưới ánh sáng từ bi của Đạo Phật và tôi đã mang tình thương yêu ấy đến với mọi người, không phải do tôn giáo của tôi mang đến, mà việc nầy khởi đầu bằng tình thương của người mẹ không biết chữ của tôi…”
(Xem: 13489)
Anh và em là những người có đạo. Nhưng đạo của chúng ta là một tôn-giáo nhân bản, một tôn giáo không hề có tín lý hay giáo điều...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant