Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Thủ Nhãn

20 Tháng Tư 202215:25(Xem: 3071)
Pháp Thủ Nhãn

Tóm lược bài giảng Pháp Thủ Nhãn
Thầy Hằng Trường thuyết giảng Ngày 6 tháng 12 năm 2020

 

hoa sen

Phần mở đầu

- Thủ là tay, là phương tiện thiện xảo
- Nhãn là mắt, là trí huệ

Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.

Cách tu vừa tay vừa mắt mục đích là gì? 

- Tay là phương tiện để cứu độ, giúp đỡ chúng sinh
- Mắt là cái nhìn, là vũ trụ quan, là chân lý

Có sự hòa hợp giữa Thủ và Nhãn, trí huệ và phương tiện. Trong phương tiện có lòng Đại Bi (trí huệ) trong đó, không có Đại bi thì không thể có phương tiện

Cho nên pháp Thủ Nhãn là pháp tu toàn diện, không tách rời tay và mắt được. Khi tu, tâm lượng càng ngày càng mở rộng chứ không phải ngày càng nhỏ hẹp, nhiều kẻ thù, chỉ thấy trắng và đen trong thế giới này. Những người khác đảng phái với mình; mình đều cho là họ sai lầm. Từ chỗ họ khác lý thuyết, khác ý thức hệ cho tới họ là những kẻ không ăn chay trường, phạm giớiphạm luật, phạm lỗi; họ là những người không toàn diện và mình cho rằng (assume) mình là người toàn diện, là thước đo của vạn duyên, vạn sự, từ đó càng ngày mình càng đóng lại.

Tu hành là sự khai mở tâm thứcchấp nhận vũ trụ biến hóa và thay đổi không ngừng. Tin rằng mọi người đều sẽ thành Phật. Khi có vũ trụ quan như vậy, mình sẽ bắt đầu sống khác đi, không đóng tâm nữa. 

Sống mà lúc nào cũng có kẻ thù, lúc nào cũng có kẻ ghét. Trong lòng lúc nào cũng có hai chữ thù ghét thì làm sao mở tâm được, làm sao tiến bộ được?  

Vì sao tu pháp Thủ Nhãn?
Thủ để làm việc, tiếp xúc và Nhãn để nhìn xa, nhìn rộng. Như thế, mình bắt đầu đi vào con đường học Đạo và tu ĐạoCon đường tu Thủ Nhãn là con đường làm sao xử dụng thiện xảo tay và mắt. Không có tay thì rất khó khăn, không làm việc gì được. Không có mắt cũng rất khó. Hai bộ phận đó là những bộ phận quan trọng mình dùng hằng ngày. Trong khi nói, mắt cũng nhìn, tay cũng có thể làm việc. 
Phương pháp Thủ Nhãn là xử dụng những vật gần gũi mình thấy hằng ngày để có cái nhìn xa, thấy được chân lý

- Ví dụ cái bát. Mình xử dụng cái bát, hay chén, đọi, ly, những vật chứa đựng. Cầm nó và thấy triết lý sâu sắc mà nó tượng trưng.
 
Triết lý sâu sắc đó là gì? Chính là tâm mình giống như cái bát, nó có thể chứa đựng. Khả năng chứa đựng của Chân tâm rộng lớnbao la như mặt đất. Nhìn cái bát, ly, chén... để thấy nguyên lý chứa đựng, tâm mình có thể chứa đựng. Nhắm mắt lại để thấy nguyên lý sâu sắc và trở thành nguyên lý đó. 

Buổi sáng, uống trà xong, hai tay làm định ấn. Vòng tròn của hai tay giúp mình đi vào trạng thái  bao dung, bao nạp. Bao nạp cái gì? Bao nạp cảnh giới tối cao của mặt đất là lúc nào cũng có thể nuôi dưỡngtrưởng dưỡng. Do đó, tâm mình mở ra một cách rộng rãi, không còn kẹt trong hành động. 

Cái nhìn phàm phu là cầm ly trà lên coi cái này giá tiền bao nhiêu, xong nhìn coi người bên kia có cái ly tốt hơn mình không? Mình rất sợ bể đồ quý, còn ly xấu thì vất, rớt bể chẳng để ý; Khi mua đồ cho người ta, dù cho người bạn thân nhất, tốt nhất, mình cũng không mua giá cao vì không nhìn thấy chân lý. Nói chung là coi trọng giá trị vật chấtđồng tiền, nhìn vào những cái bình thường của cái ly, cái chén. Mình diễn dịch bằng sự yêu ghét của cái ngã. Nói cách khác cuộc sống của mình không mở ra Thủ và Nhãn. 

- Ví dụ cái gương. Nhìn vào gương làm gì? Nếu ta soi gương để thấy cái mặt mình thôi và tay không làm gì hơn là chỉ chải đầu thì ta không thấy xa được, lúc nào cũng kẹt trong hình tướng. Mình ngồi xuống tu để giải thoát hình tướng, tay làm vòng tròn để tiếp nhận cảnh giới vô biên và sự phản ảnh của ánh sáng nội tâm

- Ví dụ trái ngọc châu là vật dùng nhiều nhất trong nhà nhưng mình không thấy. Bọt biển, xà phòng tắm, bọt nổi lên trong nước, trong lúc đánh răng đều là Như ý châuBong bóng đủ màu sắc, ở khắp mọi nơi. Trong mỗi hạt bong bóng nhỏ như vậy nhưng không biết bao nhiêu hình ảnh trong vũ trụ phản chiếu trong hạt bong bóng đó. Nếu tìm hiểu thêm, bác sẽ biết người ta bỏ thuốc siêu vi khuẩn trong bong bóng để thuốc đi vô trong mạch máu. Khi tới cơ phận bị bịnh, bong bóng bể ra để thuốc đi vô và lành trị tế bào. 

Không có bong bóng thì cuộc sống không như ngày hôm nay. Bong bóng do sóng đánh ở biển là hạt nhân tạo thành mây và thành mưa rơi xuống. Sở dĩ mỏ dầu có là vì có bong bóng không gian trong trái đất. 

Nói cách khác, Như ý châu là cái hiện hữu trong cuộc sống hằng ngày nhưng mình không thấy và không cầm lên được. Bong bóng tượng trưng cho Chân tâm

Thủ thì có những cái có thể rờ được, nắm được như Bảo bình, bình Quân Trì, Bảo bát, Sổ Châu, dây quyến Tác... nhưng Như Ý châu dường như khó thấy. 

- Ví dụ vũ khí. Trong các Thủ Nhãn, có nhiều vũ khí: có kiếm, cung tên, cây trương, kích... Vì sao? Bởi vì văn hóa xưa muốn thu phục những người có vỏ, những người làm việc cho chính phủ nên tạo phương tiện và phương pháp tu giúp những người đó vào tu một cách dễ dàng. Nhờ tu, họ sẽ thay đổi kiến giải, bớt đi sự thù hận, giận dữ và lối sống bạo động. Cho nên có nhiều phương tiện trong thời xưa không hợp với thời nay.

Vì thế, tu Bảo Kiếm không phải để giết người. Kiếm tượng trưng cho sự bén nhọn, sắc bén. Để phù hợp với thời nay, coi Bảo Kiếm như tia laser đi thẳng từ trên xuống. Bây giờ người ta dùng tia laser để chặt đứt những thứ khác nhưng mình dùng nó để xuyên thủng vô minhvọng tưởng; tất cả những tầng bóng tối trong người. 

Kinh điển xưa đôi khi dùng những chữ mạnh bạo vô cùng như chữ diệt trừ. Diệt rồi trừ, chẳng khác chi một tổ chức độc tài phải diệt trừ thành phần phản động, nghe rất dễ sợ. Cho nên mình phải thay đổi cách dịch kinh điển để phản ảnh thời đại mới, tâm thức mới, không phải lúc nào cũng bạo động. Những định nghĩa như A La Hán là sát tặc. Sát là giết chết đi, tặc là phiền não. Nhưng ý nghĩa chung của sát, diệt, trừ là gì? Là chuyển hóa tận gốc. Vậy tại sao không dùng chữ chuyển hóa tận gốc để làm bớt đi tánh bạo động? 

Có nhiều người nghĩ càng tu nhiều Thủ Nhãn bao nhiêu càng hay bấy nhiêu và bắt đầu so sánh: Mình tu mười cái, chị tu năm cái không bằng tôi. Nhưng lại quên rằng: Vấn đề không phải tu nhiều tu ít mà khi xúc chạm với những vật hằng ngày mình có chuyển hóa cái nhìn hay không? 

1. Thủ trước Nhãn sau. Xúc chạm trước, chuyển hóa cái nhìn sau. 
2. Tu pháp Thủ Nhãn không phải để củng cố thêm bản ngã. Khi tu Như Ý Châu Thủ Nhãn, bác nghĩ tu làm sao để giàu có sung sướng là đi trật đường. 
3. Hay có khi bác nghĩ con tu làm sao để lên được cảnh giới nhất thiềnnhị thiềntam thiềntứ thiền... cũng trật. Mình không đi theo con đường thiền định đó. 
 
Kết luận
Tu Thủ Nhãn là làm sao cho nhãn quan xuyên suốt, không bị kẹt. Mỗi ngày, khi tay mình xúc chạm vật gì thì mình cảm nhận được linh hồn, tánh chất thâm sâu của vật đó và càng ngày cái nhìn của mình càng xa, càng xuyên thủng, càng làm mình giải thoát.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 785)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 688)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 719)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 705)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 797)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 939)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1409)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 957)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 997)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 751)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 764)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 628)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1293)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1170)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1143)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1233)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1159)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1034)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1156)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1126)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1240)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1196)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1174)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1750)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1148)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1178)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1288)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1174)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant