Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hiểu Về Chữ “bạn” Trong Đạo Phật

21 Tháng Tư 202215:30(Xem: 2928)
Hiểu Về Chữ “bạn” Trong Đạo Phật
Hiểu Về Chữ “bạn” Trong Đạo Phật

 Thích Nhân Tánh


chu ban

Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên, hay theo Phật giáo gọi đó là do nhân duyên hội tụ đầy đủ. Trong cuộc sống, chắc chắn xung quanh mỗi người đều được bao trùm bởi rất nhiều mối quan hệ và một trong những mối quan hệ đặc biệt quan trọng, mà mỗi người đã sinh ra trên đời ít nhiều ai cũng có, đó là bạn bè. Vì sao bạn bè lại quan trọng như vậy? Có lẽ, theo Phật giáo, sự hiện hữu của một người hay con đường tương lai của người đó như thế nào, cao sang hay thấp hènthành công hay thất bại, giàu hay nghèo,… đều phụ thuộc vào vô số điều kiện tạo nên, tất cả những điều kiện đó, Phật giáo gọi chung là “Những người bạn”. Vì vậy, những người bạn này đóng vai trò quan trọng, chi phối đến toàn bộ đời sống mỗi chúng ta. Cho nên, chữ “bạn” tưởng chừng như đơn giản nhưng không phải ai cũng thấu hiểu đúng ý nghĩa thật sự. Bởi theo Phật giáo, nội hàm chữ “bạn” vượt ngoài định nghĩa thông thường của thế gian. Để rõ hơn, chúng ta cần đề cập đến ý nghĩa chữ “bạn” theo một vài khía cạnh khác nhau.

Ý NGHĨA CHỮ BẠN

Thế gian thường quan niệm, bạn là những người có mối quan hệ xung quanh mình, rất gần gũi, thân thiện, thêm bạn thì bớt thù. Nói đến khái niệm “bạn”, thông thường mọi người còn hiểu theo nghĩa tích cực là những người bạn lành, cùng chung chí hướng, chia sẻ vui buồn với mình. Tuy nhiên, chữ “bạn” ở đây lại mang nghĩa trung lập, bản thân nó chỉ nói lên mối quan hệ giữa người với người, giữa đoàn thể với đoàn thể; tùy theo tính từ, danh từ đi theo nó mà ngữ nghĩa cũng thay đổi khác đi, như: Bạn tốt, bạn xấu, bạn đời, bạn đạo, bạn học, bạn đồng minh,…

Chúng ta có thể hiểu được gì qua lời dạy của cổ đức: “Ăn cơm có canh, tu hành có bạn”, hay “Sanh ra ta là cha mẹtác thành ta là bạn bè”. Giả sử hiểu theo nghĩa thông thường, chữ bạn ở đây hàm nghĩa chỉ cho những người bạn cùng chung chí hướng, những người bạn chí cốt tâm giao, những người bạn hiện hữu bằng xương bằng thịt luôn song hành bước đi cùng mình trong cuộc sống. Nếu hiểu như vậy, quả thật vẫn chưa toát lên được nội hàm của những lời dạy trên. Bởi lẽ, không ai có thể đi cùng mình suốt con đường phạm hạnh, dù là người bạn nào chăng nữa thì cũng chỉ cùng ta đi hết một chặng đường và nhiều nhất là đi hết cuộc đời này. Để vấn đề trên được rõ ràng hơn, có lẽ chúng ta cần quan tâm đến một ngữ nghĩa mới hơn về chữ “bạn” theo lời Phật dạy.

Dưới nhãn quan Phật giáo, chữ “bạn” không đơn thuần để chỉ những người bạn như đã nêu trên mà nó còn hàm nghĩa rất rộng. Trên một phương diện nào đó, chữ “bạn” còn chỉ cho lục thân quyến thuộc của chúng ta, như: Ông bà, cha mẹ, anh em,… Điều này được Đức Phật đề cập đến trong bài kinh Tương Ưng Bộ, Phẩm Già – Người Bạn như sau: “Ai bạn người ở nhà? Bạn ở nhà là mẹ” [1]. Khách quan mà nói, lục thân quyến thuộc ngoài vai trò huyết thống, đôi lúc còn đóng vai những người bạn đồng hành với ta trong cuộc sống. Như trên phương diện tu học, họ chính là những người bạn đồng tuđồng học, cùng ta đi trên một chiếc thuyền giải thoátVì vậy, trong các đạo tràng tu học, người ta thường gọi nhau là pháp hữuđạo hữu, tức là những người bạn pháp, bạn đạo cùng đi chung một chí hướng, một lý tưởng giải thoátTuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là chúng ta nhìn nhau với một thái độ ngang hàng, người nhỏ không kính người trên, con không kính cha,… mà để chúng ta hiểu đúng hơn về ý nghĩa chữ “bạn”.

Có một lầnTôn giả Ānanda nghĩ thầm, để thành tựu toàn bộ đời sống phạm hạnh của mình thì một nửa là nhờ những người bạn lành, một nửa là tự mình nỗ lực tu tập. Sau đó, Tôn giả Ānanda liền đem suy nghĩ ấy bạch với Đức PhậtĐức Phật mỉm cười hoan hỷ với lời dạy rằng: “Chớ có nói vậy, này Ānanda! Chớ có nói vậy, này Ānanda! Toàn bộ Phạm hạnh này, này Ānanda, là thiện bạn hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình” [2]. Rõ ràng, qua lời kinh Đức Phật xác quyết rằng, toàn bộ đời sống phạm hạnh của chúng ta đều nhờ vào những người bạn lành.

Chính Thái tử Tất-đạt-đa sau 49 ngày đêm thiền định dưới cội Bồ-đề mới viên thành Phật quả. Vậy trong thời gian đó, ai là những người bạn lành giúp Ngài thành tựu đạo quả? Có phải chăng, đó chính là nhờ niềm tin, nhờ tinh tấn, nhờ nguyện lực, nhờ giới, nhờ thiền định, nhờ trí tuệ,… Để hiểu rõ điều này, trong một bài kinh khác, bài kinh Tương Ưng Bộ, Phẩm Già – Người Bạn Đức Phật cũng có dạy: “Cái gì làm người bạn? Tín thành làm người bạn. Công đức tự mình làm, là bạn cho đời sau” [3]. Rõ ràng, đoạn kinh trên như hàm ý minh chứng rằng, chính niềm tincông đức Ba-la-mật nhiều đời tu tập Giới, Định, Tuệ,… là những bạn lành giúp Thái tử Tất-đạt-đa tiến lên quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ngay trong kiếp cuối cùng của Ngài. Như vậy, dưới góc nhìn tổng thể của Phật giáo, chữ “bạn” ở đây còn được hiểu là toàn bộ những gì ta thấy, ta nghe, ta ngửi, ta nếm, ta xúc chạm và ta suy tư hay nói gọn hơn, đó chính là sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), là đối tượng mà sáu căn của mỗi người luôn chật chờ đón nhận.

Hằng ngàychúng ta tiếp xúc những gì, nghe đọc những gì, ngửi nếm những gì, suy tư những gì… đó chính là những “người bạn” của chúng ta. Nếu ta thường xuyên lướt web, đọc báo, xem phim, hay suy tư đầy bất thiện,… thì đây chính là những người bạn đưa chúng ta về cảnh giới sa đọa. Bởi lẽ, khi tiếp xúc với những đối tượng này, chúng không có khả năng giúp chúng ta hướng thượngly thambuông bỏ mà lại gia tăng thêm hận thùluyến áichấp thủTrái lại, những người bạn có khả năng giúp chúng ta hướng thượngly thambuông bỏ như xem kinh, nghe pháp, nhớ nghĩ điều lành, ngồi thiền, sống có chánh niệm, có chánh tín,… thì càng ngày những người bạn này sẽ giúp chúng ta tăng trưởng đời sống phạm hạnh. Điều này lại một lần nữa đã được Đức Phật xác quyết qua một bài kinh khác như sau: “Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỳ kheo, do pháp ấy, các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi và các pháp bất thiện đã sanh được đoạn tận, này các Tỳ kheo, như làm bạn với thiện” [4].

Như vậy, toàn bộ các pháp thiện hay ác đều có thể trở thành bạn của chúng ta, nhưng chính chúng ta lại là người có quyền quyết định nên làm bạn với thiện pháp hay ác pháp. Dù bạn thiện hay bạn ác, thì những người bạn này không chỉ tác động bản thân ngay trong đời sống hiện tại, mà chính nó sẽ theo chúng ta đến tận nhiều đời vị lai. Làm bạn với những pháp thiện, càng ngày chúng ta càng như những đóa hoa tô đẹp cho cuộc đời; bao nhiêu khó khăn gian nan vất vả cũng nhờ làm bạn với thiện pháp mà dễ dàng lướt qua. Cũng chính thiện pháp là người bạn công đức tác độngchi phối, kết thành đời sống tốt đẹp hơn của chúng ta ở các đời sau này.

Trong thời đại công nghệ thông tin tiên tiến như hiện nay, việc tiếp xúc với những điều xấu hay tốt trên mạng xã hội cực kì dễ dàng. Chỉ cần một cú click chuột, chúng ta có thể truy cập vô vàn trang mạng bổ ích, mang ý nghĩa hướng thượng; nhưng cũng một click chuột đó lại hướng chúng ta đi vào những thế giới tối tăm như đồng nghĩa với vô minh và tội lỗi. Nhưng lạ thay, con người thường có xu hướng chìm theo dục vọng của bản thân, thích tìm đọc những điều xấu hơn là điều tốt và từ đó chúng ta dễ dàng kết bạn với những gì mà chúng ta bắt gặp. Cứ một lần tiếp xúc là một lần mối quan hệ lại được thắt chặt và chính chúng ta là tác nhân cốt cán cho việc làm đó. Lâu dần, việc tiếp xúc đó biến thành hành động, thì cũng chính chúng ta là người phải thọ nhận kết quả. Theo đó mà suy, cuộc đời của chúng ta như thế nào đều tùy thuộc vào việc chúng ta tiếp xúc thường xuyên với đối tượng nào trong đời sống thường nhật. Đâu đó, trong sâu thẳm tâm thức, câu nói từ ngàn xưa: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” như mang ý nghĩa minh chứng toàn bộ vấn đề nêu trên. Vì vậycuộc đời mỗi người trở nên “đen hay sáng” đều tùy thuộc vào việc chúng ta tiếp xúc với “mực hay đèn”, bởi chính nó là người bạn của ta vậy. Chúng ta nên thân cận với những người bạn hiền lươnghướng thượng, để ngày càng tinh tấn trên con đường gạn độc tham sân si.

Tỳ kheo Thích Nhân Tánh

 

Chú thích và tài liệu tham khảo:

Tỳ kheo Thích Nhân Tánh – Tăng sinh hệ Cử nhân Phật học, Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh.

[1] Thích Minh Châu dịch, kinh Tương Ưng Bộ, Chương Tương Ưng Chư Thiên, VI. Phẩm Già, Người Bạn, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2020, tr.998.

[2] Thích Minh Châu dịch, Kinh Tương Ưng, tập V, Đại Phẩm, Chương Tương Ưng Đạo, Phẩm Vô Minh, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, 1999, tr.11.

[3] Thích Minh Châu dịch, kinh Tương Ưng Bộ, Chương Tương Ưng Chư Thiên, VI. Phẩm Già, Người bạn, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2020, tr.48.

[4] Thích Minh Châu dịch, kinh Tăng Chi Bộ, tập I, Chương Một Pháp, Phẩm Làm bạn với thiện, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, 1996, tr.30.

(https://thuvienhoasen.org/a37478/tap-chi-van-hoa-phat-giao)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 924)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1244)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 713)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 685)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 756)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 766)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 747)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 739)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 892)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 774)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 933)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 936)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 865)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 871)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 809)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 957)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 890)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 832)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 920)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 841)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 797)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 895)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 829)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1081)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 859)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 947)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1092)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1566)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1103)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1173)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1049)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 916)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 861)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 898)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 753)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1429)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1304)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1267)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1210)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1328)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1273)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1408)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1284)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1155)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1202)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1257)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1238)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1359)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1254)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant