Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lợi Ích Của Sự Hành Trì Giới Luật

12 Tháng Sáu 202214:45(Xem: 2410)
Lợi Ích Của Sự Hành Trì Giới Luật
Lợi Ích Của Sự Hành Trì Giới Luật  

Thích Nữ
 Minh Tâm

hoa sen
 

I. Nhập đề:

 

            “Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’  Họ Bạch nói: ‘Hai câu nói ấy, đứa bé lên ba cũng nói được.’  Ngài Ô Sào bảo: ‘Tuy đứa bé lên ba nói được nhưng ông già tám mươi chưa làm xong.’  Phải biết lời nói này chính là lời nói thiết yếu quan trọng nhất đối với hết thảy người học Phật.[1]

 

            Thực vậy, hai câu ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành’ chính là đại ý của hết thảy kinh, giới của tam thế chư Phật, và cũng là mục đích của đạo đức học Phật giáo nhắm vào đối tượng con người để hướng dẫn họ tới một cuộc sống an lạcthanh tịnh, và trở thành một con người đầy đủ toàn vẹn nhân cách cao thượng, chân thiện mỹ.  Do đó, muốn thực hiện triệt để mục đích tu hành hướng tới giải thoátgiác ngộ cao đẹp tối thượng đó, hàng đệ tử Phật nhất định phải tuân thủ hành trì nghiêm mật một số qui tắc cần thiết, theo đạo Phật, gọi đó là Giới Luật.

 

            II. Định nghĩa:

 

Giới, tiếng Phạn là Sìla, Trung Hoa dịch là Giới, có nghĩa là phòng phi chỉ ác, là phòng bị, răn cấm, câu thúcngăn ngừa những điều sai trái, những tâm niệm tà vạy xấu xa.  Giới là những phạm trù, những cương lĩnh, những hàng rào tự nhiên trong đời sống thông thường.  Giới còn được gọi là ‘biệt biệt giải thoát’, có nghĩa là người nào giữ trọn vẹn được giới nào thì hưởng trọn vẹn kết quả của sự hành trì giới đó.  Thí dụ như chúng ta giữ hoàn toàn không xâm phạm giới sát sinh hay trộm cắp thì chúng ta sẽ không bao giờ lo sợ bị giam cầm hay yểu mạng, đau ốm, v.v. hơn nữa còn được người đời khen ngợi.

 

Luật, tiếng Phạn là Upalaksa, Trung Hoa dịch là Luật, là những qui tắc, nguyên tắc, kỷ luật, khuôn khổ, pháp tắc, điều lệ giữ gìn trật tựkỷ cương trong Tăng đoànGiáo hội Phật giáo mà mọi người con Phật phải thực thi.  Cũng giống như chúng ta học lái xe, chúng ta bắt buộc phải chấp hành những luật lệ lái xe, nếu chúng ta vi phạm luật lệ giao thông, chắc chắn chúng ta sẽ bị xử lý tùy theo mức độ vi phạm nặng nhẹ; tuy nhiên giới luật của đạo Phật không phải là những tín điều bắt buộc người đệ tử phải nhắm mắt mù quáng tuân theo mà chỉ là những phương tiện hành trì giúp cho những người học đạo, nếu muốn sống đời thanh tịnhphạm hạnh, phải ngăn ngừa những hành động tội lỗi và điều phục chế ngự được dục vọng tư hữu của mình ngõ hầu có thể tiến dần lên quả vị giải thoát.

 

Theo Phật sửtrong suốt mười hai năm đầu, Đức Phật chưa chế giới vì trong Tăng đoàn hoàn toàn thanh tịnh, người giác ngộ và đắc Thánh quả nhiều, chưa có những điều tệ hại xảy ra, nhưng càng về sau, khi Tăng đoàn càng lớn mạnh thì bắt đầu manh nha những người làm điều phi pháp, phá vỡ sự thanh tịnh và hòa hợp, làm cản trở sự tu tập giải thoát; vì thế để ổn định lại kỹ cương trật tự của Tăng đoàn, Phật đã ‘tùy phạm tùy chế’, nghĩa là vi phạm tới đâu, chế giới luật tới đó.  Tất cả những nguyên tắc, kỷ luật đó được chúng đệ tử xuất giatại gia gìn giữtu tậptruyền thừa và dần dần được hệ thống hóa thành Luật tạngcuối cùng được phân chia ra rõ rệt giới luật cho đệ tử xuất gia gồm có Tỳ Khưu Tăng (250 giới), Tỳ Khưu Ni (348 giới), Sa Di và Sa Di Ni (10 giới), năm giới, tám giới cho hàng đệ tử tại gia, và Bồ Tát giới thông cho cho cả hai chúng đệ tử xuất gia và tại gia.

 

            Nói gọn lại cho dễ hiểuGiới Luật nhà Phật là những khuôn khổ, pháp tắc, qui củ thuận theo pháp tánhcăn cơ được sử dụng hành trì để nhiếp phục dục niệm, chế ngự tà tâmđối trị nghiệp duyêntập khí xấu ác của mọi chúng sinh, vì thế tất cả hàng đệ tử Phật phải y giáo phụng hành, không được sái phạm.

 

III. Lợi ích của sự hành trì Giới Luật

 

a)      Quan hệ của Giới Luật trong phạm trù Nhân Quả

 

Hai chữ ‘Nhân Quả’ gồm trọn hết thảy các pháp thế gianxuất thế gian không sót chút gì.  Kinh dạy: ‘Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả.’  Nếu chẳng muốn nhận quả khổ thì phải đoạn trừ nhân xấu ác trước đã.  Nếu luôn tu thiện nhân, ắt quyết định hưởng quả vui.  Đây chính là điều kinh Thư viết: ‘Tác thiện giáng tường, tác bất thiện giáng ương’ (Làm thiện thì điều lành tốt tới, làm điều bất thiệntai ương giáng xuống).  Kinh Dịch cũng nói: ‘Tích thiện tất hũu dư khánh, tích bất thiện tất hữu dư ương’ (Tích thiện, sự vui có thừa, chất chứa điều bất thiệntai ương ắt có thừa).[2]

 

Hai câu nói của ngài Ô Sào Thiền Sư ở trên trích trong bài kệ bốn câu:

‘Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành,
Tự tịnh kỳ ý,
Thị chư Phật giáo’

tạm dịch là:

‘Không làm các điều ác,
Vâng làm các hạnh lành,
Giữ tâm ý trong sạch,
Đó lời chư Phật dạy’

cũng chính là muốn nhấn mạnh điểm ‘phòng phi chỉ ác’ của Giới Luật mà cũng là phương cách phòng bị, ngăn ngừa nhân quả, giúp cho hành nhân khéo làm hạnh lành, tránh xa việc xấu, giữ cho thân tâm được trong sạch.

                           

“Thiện – ác chẳng ngoài ba nơi thân, khẩu, ý.  Đã biết nhân quả sẽ tự phòng giữ thân - miệng, rửa lòng gột ý.  Dù ở trong nhà tối, phòng kín vẫn luôn như đang ở trước các vị thần thánh, chẳng dám móng khởi chút tà niệm tư dục nào, để khỏi bị chiêu cảm quả báo xấu.  Đấy chính là đại pháp ‘trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân’ để dạy khắp hết thảy chúng sinh thượng, trung, hạ căn của đức Đại Giác Thế Tôn vậy.  Tuy thế, kẻ cuồng sợ bị câu thúc, bảo đó là chấp tướng; kẻ ngu nhằm tránh khỏi bị xấu mặt, bèn bảo đó là chuyện vu vơ.  Trừ hai hạng người này ra, có ai lại chẳng tin nhận?”[3] vì thế, từ kẻ phàm phu nghèo hèn cho đến người thanh cao quyền qúi, không ai lại không muốn an hưởng một đời sống hạnh phúcấm noyên ổn, không lo sợ phập phồng, bất an.  Muốn được như thế, tất nhiên chúng ta phải tuân thủ qui luật, phép tắc, kỷ cương đạo lý luân thường.  Nhất là người xuất gia chân chính thì phải hành trì nghiêm mật giới pháp đã lãnh thọ, trước là giữ gìn thân, khẩu, ý nghiệp của chính mình để không bị vương mang hệ lụy nhân quả, sau là làm gương mẫu cho người người noi theo tu tập để gia đìnhxã hội được trật tự, hài hòa, an vui. 

 

b)      Giới Luật trong phạm trù Tam Vô Lậu Học

 

Phật pháp rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không.  Luận đến chỗ thiết yếu thì chỉ có ba pháp Giới - Định -Tuệ mà thôi!  Nhưng ba pháp này dung nhiếp lẫn nhau, chẳng thể đứng tách riêng ra một mình được. Sơ tâm nhập đạo thì trì giới là nhiệm vụ quan trọng nhất.  Do vậy, kinh Lăng Nghiêm nói: ‘Nhiếp tâm là Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ.  Đấy gọi là Tam Vô Lậu Học.’  Do vậy, lúc đức Như Lai mới thành Chánh Giác, liền nói Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới để hết thảy Bồ Tát cùng chư Thiên Thích Phạm, và vua quan, nhân dân dù Tăng hay tục, cho đến đào kép, nô tỳ, hết thảy chúng sanh trong ba ác đạo đều cùng thọ trì.  Do vậy, biết Giới chính là lò luyện lớn lao để Như Lai nung phàm luyện thánh vậy.”[4]

 

Như thế có thể nói, ba pháp này như cái đỉnh có ba chân, nếu thiếu một cái thì cái đỉnh không thể đứng vững được.  Tuy nhiên nói có ba nhưng thực ra chi có một, nói có một nhưng lại phải cả ba; bởi vì nhờ giữ Giới mà thân, khẩu, ý nghiệp không vi phạm, tâm được an trụ, nhiếp tâm nên sanh Định, nhờ có Định kết hợp với Giới giữ cho vọng tâm không sanh khởi, nghiệp tận tình không, thấu tột lẽ chân thường, trí óc minh mẫn sáng suốt, đó không phải là công dụng của Tuệ hay sao?  Người học Phật cần phải biết rằng dù là Hiển giáo hay Mật giáo, dù Thiền hay Tịnh, v.v. tất cả các pháp phải trọn vẹn Giới - Định - Tuệ thì mới có thể truyền đăng tục diệm, kế vãng khai lai được, còn nếu khiếm khuyết, không đầy đủ thì không thể nào thượng hoằng Phật đạohạ hóa quần sinh cho được.

 

Kinh Phạm Võng dạy: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành.  Thường nên tin như thế thì giới phẩm đã trọn đủ.”  Câu nói này đủ giúp chúng ta nhận thức rõ tầm quan trọng và sự thống nhiếp các pháp của giới luật, do đó các bậc tri thức, các vị hành giả tu trì, không ai mà không lấy Giới Luật làm nền tảng ban đầu học đạo, làm nhiệm vụ trước tiên, và cũng vì sự quan trọng thiết yếu đó nên chắc chắn sự thọ lãnh và hành trì giới luật sẽ đem lại cho chúng ta lợi ích tốt đẹp to lớn trong suốt cuộc đời tu hành của chúng ta.

c)      Lợi ích của sự thọ lãnh và hành trì Giới Luật

 

Theo lời Phật Tổ dạy, thế đạo nhân tâm thời Mạt pháp bị suy hãm đến cùng cực, pháp nhược ma cường, muốn hộ trì Phật pháp, ở cõi tục tương đối dễ, nhưng xuất gia làm Tăng không phải việc đơn giản, dễ làm.  Nếu không gặp được minh sư, thiếu người cùng hạnh để nâng đỡ, rèn giũa mình tinh tiến học đạo thì chí hướng thượng của chúng ta có thể bị suy giảm, chẳng còn sốt sắng siêng năng, dễ xuôi theo biếng nhác, trễ lười, uổng phí một đời xuất gia làm Phật tử, cô phụ ân Thầy Tổ, không báo hiếu được mẹ cha.  Tổ sư Ấn Quang nói: “Người xuất gia nếu chẳng phải là chân tu thì tập khí đầu đường xó chợ còn quá hơn kẻ tục,”[5] vì thế, người xuất gia, nếu muốn thanh tịnh thân tâm, việc quan trọng đầu tiên là phải nghiêm trì Giới Luật.

Chúng ta có thể kém tài, nhưng đối với giới luật mà mình đã lãnh thọ thì phải “tịnh như băng tuyết”. Kinh Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán, Phật dạy: “Vào biển Phật Pháp lấy đức tin làm căn bản, vượt dòng sanh tử lấy giới luật làm thuyền bè. Nếu người xuất gia mà không giữ giới cấm, lại tham đắm, vướng mắc những thú vui thế tục, hủy báng giới pháp của Chư Phật, hạng tỷ kheo như thế không còn được gọi là người xuất gia nữa”. Chúng ta là những trưởng tử Như Laigiữ gìn mạng mạch Phật Pháp để lưu truyền nơi thế gian, lãnh trách nhiệm “tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự”, muốn cho chánh pháp trường tồn thì phải lấy giới làm Thầy. Ba đời chư Phật đều nương vào giới luật mà tu tập cho đến khi thành tựu đạo quả. Như vậy, khi nào không còn người giữ giới nữa thì Phật Pháp cũng từ đó mà hoại diệt, vì không còn người đủ tư cáchđức hạnh để tuyên dương chánh pháp của Như Lai.”[6]

 

Tuy nhiên người xưa xuất gia thọ giới là vì phát tâm giải thoát sinh tử luân hồi, còn người đời nay thọ giới đa phần chỉ vì để được làm đại Tăng cho thỏa thể diện, chuyện đắc giới chưa hề thực hiện hay nghĩ tưởng đến.”[7]  Vì vậy, trong Tăng đoàn đã xảy ra nhiều vấn đề phức tạprối loạn kỹ cương, vàng thau lẫn lộn, nhất là sau này tệ nạn thâu nhận đồ đệ hời hợt, chỉ muốn có chúng đệ tử đông nhiều mà không quan tâm đến phẩm hạnh tư cách, và lơi lỏng dễ dàng quá mức cho vấn đề thọ lãnh giới pháplắm khi đưa đến tình trạng phi pháp phi luật, cho nên nhiều kẻ cang cường, phường hạ lưu cũng đã chen chân vào được trong Tăng đoàndự vào hàng Thích tử, nghênh ngang xem thường giới pháp đã lãnh thọ, mê trái bản tâmphóng túng làm chuyện thương tổn luân lý, phong tục . . .

 

Vì tính cách quan trọng thiết yếu của Giới Luật trong giềng mối giữ vững mạng mạch Phật pháp đó, dấu ấn quan trọng nhất trong đời tu của một người đệ tử Phật, nhất là người xuất gia, chính là ngày được đăng đàn thọ lãnh giới pháp.  Trong không khí trang nghiêm hào hùng của giới đàn, vào giờ phút long trọng linh thiêng, dưới sự chứng minh của những bậc cao Tăng thạc đức tam sư thất chứng, lời thệ nguyện lãnh thọ phụng trì giới pháp của vị Tăng sĩ, đệ tử xuất gia của Phật, xuất phát từ lòng thâm tín chư Phật, dũng mãnh quyết tâm đi theo bước chân hoằng pháp của đức Như Lai, dâng hiến trọn đời mình cho hạnh phúc và an lạc của chúng sinh, đã trở thành một ấn tượng khó lạt phai trong tâm tưởng người thọ giới, và cũng chính nhờ vào dấu ấn ‘vô biểu sắc’ này mà vị Tăng sĩ đó có thể vượt qua được nghịch cảnh thăng trầm của dòng đời và những biến đổi não loạn của nội tâm, từ đó có thể vững mạnh thực hiện lý tưởng ‘thượng hoằng Phật đạohạ hóa quần sinh’, khỏi cô phụ ân đức của Thầy Tổ, mẹ cha, và đàn na tín thí.

 

Cũng chính nhờ vào sự trân trọng lãnh thọ giới pháp đó mà hàng Tăng sĩ chúng ta dần dần chuyển hóa được những tập khí xấu ác từ vô lượng kiếp trước, thăng hoa tâm trí, “phát triển được tánh linh, để xứng đáng là bậc trượng phu lỗi lạc, là con chân thật của đức Thế Tôn.  Nếu không y giáo phụng hành như thế, thì dưới lớp ca sa, đánh mất thân người, nỗi khổ tam đồ ác đạo dẫu hết cả kiếp vẫn chưa thể nói hết được.”[8]

 

IV. Kết luận

Xưa kia, khi còn sinh tiền, Hòa Thượng Tuyên Hóa có dạy môn đồ viết đối liễn, trong đó có câu “Phật giáo đồ nhược bất trì giới tức Mạt pháp” nghĩa là nếu tín đồ Phật Giáo không trì giới tức là Mạt Pháp.  "Phật Giáo đồ" có nghĩa là hàng Tăng Sĩ, đệ tử xuất gia của Phật.  Phật giảng Pháp, Tăng theo Pháp tu hành rồi truyền cho người khác. Tăng nhất định phải trì Giới, không trì Giới thì đó là Mạt Pháp, nên nói: "Nếu Phật Giáo đồ không trì giới tức là Mạt Pháp."

Phật pháp nhờ vào Tăng mà truyền đạt, song Tăng sĩ phải cần lấy Giới làm gốc.  Giới là nền tảng để thành Phật. Nền tảng này cũng giống như cái móng khi xây nhà. Bây giờ mình xây móng để dựng nhà Phật pháp, thì chắc chắn phải lấy sự hành trì Giới làm bước khởi đầu.  Kinh Thư cũng có câu: “Thánh mất niệm nên thành cuồng, cuồng khắc chế được ý niệm bèn thành Thánh.”  Do vậy nên biết nếu điều phục, khắc chế được vọng niệmtà tâm thì mới phát huy được đức tướng, trí huệ để thành thượng nhânthành thánh, và phương pháp duy nhất hữu hiệu để chế ngự được vọng tâm thì chỉ có Giới Luật mới có đủ công năng giúp hành giả bối trần hiệp giác, không bị xuôi thuận theo nhiễm duyên phiền não khiến cho sóng Thức tuôn trào, biển Nghiệp dập dồn tơi tả.

Cách đây hơn 2, 550 năm, khi sự nghiệp một đời giáo hóa xong xuôi, sắp nhập Niết Bànđức Phật đã thiết tha dặn dò hàng đệ tử và tất cả chúng sinh“Này các Tỷ khưu, sau khi Ta diệt độ, các vị cần phải tôn trọng kính ngưỡng Ba la đề mộc xoa (giới luật), như kẻ mù tối được sáng mắt, kẻ nghèo hèn được vàng ngọc. Phải biết Giới Luật là bậc Thầy cao cả của các vị, dù Ta ở đời cũng không khác gì Giới Luật ấy.” (Kinh Di Giáo)

Tiếp đó, Phật dạy về lợi ích trì giới, về những pháp chế tâm nhất xứ, về cách sống, cách uống ăn điều độ, v.v.  Ngài dặn đi dặn lại nhiều lượt, từ những điều nhỏ nhặt, vi tế cho đến những sự việc lớn lao, còn quá chi li, tỉ mỉ, đượm đầy từ bi hơn cả mẹ hiền dạy bảo con cái.  Thật không thể dùng bút mực nào để diễn tả được hết lòng Từ Bi của Phật thương chúng sinh, như trong kinh Lăng NghiêmBồ Tát Đại Thế Chí niệm Phật chương, có đoạn: “Thập phương Như Lai, lân niệm chúng sanh như mẫu ức tử. Nhược tử đào thệ, tuy ức hà vi? Tử nhược ức mẫu, như mẫu ức thời. Mẫu tử lịch sanh, bất tương vi viễn” (Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con bỏ trốn dẫu nhớ cũng chẳng làm gì được! Nếu con nhớ mẹ như khi mẹ nhớ con thì mẹ con trải qua nhiều đời chẳng xa cách nhau).

 

Do đó, muốn báo đáp ân đức của Phật Tổ và đàn na tín thí, muốn báo hiếu cha mẹ hiện đời, muốn hoàn thành tuệ nghiệp và lý tưởng xuất trần độ thế của người đệ tử xuất gia của đấng Thế Tôn đại hùng đại giácchúng ta phải thành tâm lãnh thọnghiên cứu thấu triệt tinh thầný nghĩa giới luật; một khi hiểu rõ giới luật rồi, chúng ta sẽ biết cách làm người như thế nào và một khi hiểu rõ bổn phận làm người, chúng ta cũng sẽ biết rõ bổn phận làm bậc Thánh nhân.  Hành trì được như thế, chúng ta mới không khỏi hổ thẹn ‘thân khoác ca satâm vương trần lụy,’ để rồi cả một đời chuốc hận khổ đau, đường giải thoát mịt mờ xa thẳm.

 

Nói tóm lạiGiới Luật là mạng mạch của Phật Pháp, là thuyền Bát Nhã giúp hành giả vượt bến mê, là đôi cánh xoãi dài rộng của thân chim đại bàng tung bay vút cao trên bầu trời trong xanh kia, là bến đỗ của an lạchạnh phúc, và tình thương.

 



[1] Như Hòa. Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục. Chùa Đức Viên, San Jose, California, Hoa Kỳ, 2006, trang 248.

[2] Như Hòa.  Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục. Chùa Đức Viên, San Jose, California, Hoa Kỳ, 2006, trang 250. 

[3] Như Hòa.  Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục. Chùa Đức Viên, San Jose, California, Hoa Kỳ, 2006, trang 260-61.

[4] Như Hòa.  Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao quyển 3.  Chùa Đức Viên, San Jose, CA, Hoa K ỳ, 2008, trang 1340.

[5] Như Hòa.  Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao quy ển 1.  Chùa Đức Viên, San Jose, CA, Hoa K ỳ, 2008, trang 556.

[6] Thích Thông Huệ.  Thọ mạng của Phật Pháp.  http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/thomang.htm

[7] Như Hòa.  Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao quy ển 1.  Chùa Đức Viên, San Jose, CA, Hoa K ỳ, 2008, trang 557.

[8] Như Hòa.  Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao quy ển 3.  Chùa Đức Viên, San Jose, CA, Hoa K ỳ, 2008, trang 1200.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1180)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1382)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1450)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1484)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1378)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1323)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1136)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1246)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1236)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1320)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1339)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1408)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1277)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1384)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1284)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1248)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1315)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1245)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1421)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1679)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1369)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1670)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1273)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1189)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1404)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1264)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1321)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1471)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1711)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1724)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1529)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1728)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1406)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1375)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 1892)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1466)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1418)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1371)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1346)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1441)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1292)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1548)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1537)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1406)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 1410)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1301)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1700)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1456)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant