Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Sanh Thảy Thảy Pháp Sanh, Tâm Diệt Thảy Thảy Pháp Diệt.

Wednesday, June 15, 202216:20(View: 1647)
Tâm Sanh Thảy Thảy Pháp Sanh, Tâm Diệt Thảy Thảy Pháp Diệt.

Tâm Sanh Thảy Thảy Pháp Sanh, Tâm Diệt Thảy Thảy Pháp Diệt.

Nguyễn Thế Đăng


Tâm Sanh Thảy Thảy Pháp Sanh



1/ Có thế giới bởi vì có tâm

Câu lấy làm nhan đề trên ở trong Luận Đại Thừa Khởi Tín của Bồ tát Mã Minh (Asvaghosha), thế kỷ thứ nhất Tây lịch. Câu này thường được các Thiền sư và các hành giả nhắc đến nhiều trên con đường tu tâm.

Tu tâm là tìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm. Ngài Mã Minh nói trong Luận Khởi Tín:

Bởi vì tất cả pháp xưa nay duy chỉ là tâm, thật không có niệm (vô niệm, không có tư tưởng). Nhưng do tâm vọng động, bất giác khởi niệm, thấy các cảnh giới, thế nên nói là vô minh. Tánh của tâm vốn chẳng khởi, đây là Đại trí huệ quang minh tạng”.

Bản tánh của tâm vốn vô niệm, thế nên thực hành Phật pháp là để đạt đến bản tâm vô niệm này:

Thế nên trong các khế kinh dạy rằng: Nếu có chúng sanh quán vô niệm tức là đang hướng đến trí Phật” (Luận Khởi Tín).

Khi tâm vô niệm thì cảnh cũng vô niệm, đó là giải thoáttâm cảnh đều Không.

Lại nữa, hiển thị từ môn sanh diệt tức là nhập môn Chân Như. Nghĩa là, truy tìm năm uẩn, sắc và tâm cùng cảnh giới sáu trần rốt ráo là vô niệm.” (Luận Khởi Tín)

Khi tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt, tất cả thế giới sanh tử diệt. Đức Phật nói trong Kinh RohitassaTương Ưng Bộ I:

Chính trong cái thân cao hơn một thước này, với tri giác và trí năng của nó, ta tuyên bố có thế giới, sự phát sanh của thế giới, sự chấm dứt của thế giới, và con đường thực hành đưa đến sự chấm dứt của thế giới”.

Có thế giới, sự phát sanh của thế giới, đó là “tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh”. Sự chấm dứt của thế giới, đó là “tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt”. Và con đường thực hành đưa đến sự chấm dứt của thế giới là con đường ngộ, nhập bản tánh vô niệm của tâm.

 

2/ Bản tánh của niệm hay tư tưởng

Mục đích của tất cả các con đường Phật giáo là đưa con người trở về nguồn tâm, về bản tánh của tâm vốn vô niệm của chính mỗi người. Nguồn tâm, bản tánh của tâm là tánh Không và tánh sáng. Đó là thật nghĩa của vô niệm.

Chúng sanh lạc vào sanh tử khó có ngày ra khỏi bởi vì họ lạc vào những khởi niệm của chính họ mà không biết cội nguồn của mọi khởi niệm là bản tánh của tâm vốn vô niệm. Nhưng một Bồ tát dù đã đạt đến các địa của Pháp thân vô niệm thì vẫn phải hoạt động ở đời, tự giác-giác tha, nghĩa là vẫn phải dùng hoạt động khởi niệm của tâm. Cùng làm việc ở đời như nhau nhưng sự khác biệt căn bản là Bồ tát ấy biết bản tánh của mọi niệm khởi là tánh Không và tánh sáng. Nghĩa là biết các niệm không khác với cội nguồn vô niệm từ đó chúng khỏi sanh: các niệm là vô niệm.

 

Lục Tổ Huệ Năng không nói vô niệm là không có niệm nào cả mà “nơi niệm mà vô niệm, nơi tướng mà lìa tướng”:

Vô niệm là nơi niệm mà vô niệmVô tướng là nơi tướng mà lìa tướng... Người mê bám vào pháp tướngchấp Nhất hạnh tam muội là thường ngồi chẳng động, vọng niệm chẳng khởi nơi tâm. Nếu hiểu như vậy là đồng với loài vô tình, trở lại thành cái nhân duyên ngăn chướng đạo. Thiện tri thức! Đạo vốn thông lưu, sao lại làm cho ngưng trệ”.

Karmapa thứ Chín Wangchug Dorje (1556-1603) nói trong tác phẩm của ngài The Mahamudra eliminating the darkness of ignorance (Thiền xóa tan bóng tối vô minhThiện Tri Thức, 2001):

Hơn nữa, tư tưởng ngay khi đang khởi thì tự thân nó là tánh Không sáng tỏ. Khi con chứng ngộ hay có được sự quán chiếu này, bấy giờ con đã nhận ra bản tánh của tư tưởng.

Không có chút khác biệt dù nhỏ nhất nào giữa trạng thái vô niệm và trạng thái quán chiếu thấy rõ rằng những tư tưởng chuyển động, tâm an định và bản tánh vô niệm của những tư tưởng, cả ba đều trống không, sáng tỏ và rạng ngời. Cho hai trạng thái đó khác biệt là một nhận xét của tâm thức chưa nhận ra chúng.

Trước kia, khi con chưa nhận ra bản tánh của những tư tưởng, con không thể đem chúng vào trong thiền định của con. Đó là vô minh. Nhưng giờ đây con đã nhận biết chúng, con có thể thiền định về chính những tư tưởng và như thế chúng trở thành tánh giác nguyên sơ. Bây giờ con có thể lấy những tư tưởng làm căn bản của thiền định”.

Lục Tổ Huệ Năng nói Hóa thân là sự biến hóa ra các tư tưởng từ Pháp thân tánh Không, “bản tánh vốn như hư không”. Biến hóa nên là như huyễnnhư huyễn đồng với tánh Không. Hơn nữa, sự biến hóa ấy là sự biến hóa của Tự tánh, của Bản tâm vô niệm, nên gọi là Tự tánh Hóa thân:

Sao gọi là Ngàn Trăm Ức Hóa Thân? Nếu chẳng nghĩ muôn pháp thì bản tánh vốn như hư không. Một niệm nghĩ lường gọi là biến hóa. Nghĩ lường việc ác thì hóa làm địa ngục, nghĩ lường việc thiện thì hóa làm thiên đườngđộc hại hóa làm rồng rắn, từ bi hóa làm Bồ táttrí huệ hóa làm cõi trên, ngu si hóa làm phương dưới. Tự tánh mình biến hóa rất nhiều, người mê chẳng thể tỉnh giácniệm niệm khởi ác, thường hành đường ác. Xoay về một niệm thiện thì trí huệ liền sanh, ấy gọi là Tự tánh Hóa thân Phật” (Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Sám Hối)

 

Trong Kinh Phật địa, nói Diệu quan sát trí và Thành sở tác trí là Hóa thân của Pháp thân Đại viên cảnh trí vô niệm, và hóa thân này hoạt động mạnh mẽ vô tận. Ở đây chỉ trích ra một đoạn (trong mười đoạn) nói về Diệu quan sát trí của Phật:

Như trong thế giới có các núi vua cao lớn hiển hiệndiệu quan sát trí của Phật cũng như vậy, có chư Phật, Bồ tát oai lực diễn nói giáo pháp sâu xa rộng lớn”.

Thành sở tác trí thì gồm cả thân ngữ ý của Phật:

Như thân nghiệp của chúng sanh chuyên cần gắng sức tìm cầu quay cuồng theo các thứ lợi danh, giàu có, công việc. Thành sở tác trí của Như Lai cũng như vậy, thân hóa nghiệp chuyên cần, do đó thị hiện thảy thảy các việc như công xảo, bẻ dẹp tất cả phiền não kiêu mạn của chúng sanh, dùng lực phương tiện thiện xảo dẫn dắt chúng sanh khiến nhập thánh giáo, thành thục giải thoát”.

Về ngữ của Phật:

Lại như ngữ nghiệp phương tiện của chúng sanh, do đó chúng sanh chỉ bảo cho nhau công việc, chê ác khen thiện, cho đến ra lệnh. Thành sở tác trí của Như Lai cũng như vậy, khởi ra phương tiện ngữ nghiệp biến hóa, do đó Như Lai lập ra chỗ học chân chánh, chê trách các buông lung phóng dật, khen ngợi sự chẳng phóng dật. Lại thành lập hạng tùy tín hành và tùy pháp hành…, dùng lực phương tiện thiện xảo ấy dẫn dắt các chúng sanh khiến vào thánh giáothành thục giải thoát”.

Về ý của Phật:

Lại như ý nghiệp tạo tác của chúng sanh, do đó chúng sanh tạo tác thảy thảy các nghiệp được sanh khởi. Ý hóa nghiệp tạo tác của thành sở tác trí của Như Lai cũng như vậy, do đó Như Lai quan sát các hành động của chúng sanh, làm và không làm, hoặc được hoặc mất, khiến cho lấy bỏ mà tạo tác các đối trị, dùng lực phương tiện thiện xảo ấy dẫn dắt chúng sanh khiến vào thánh giáothành thục giải thoát”.

Hoạt động để giải thoát cho chúng sanh của Phật qua diệu quan sát trí và thành sở tác trí là phủ khắp, tác động đến tất cả chúng sanh của ba cõi sanh tử.

 

3/ Sanh mà không sanh, niệm mà vô niệm

Như vậy không nên nghĩ một cách đơn giản rằng vô niệm là không có tư tưởng, không có ý nghĩ, như một loại định bất độngVô niệm là nền tảng căn bản cho mọi khởi niệm, cho mọi hóa thân làm việc.

Một người tu Bồ tát đạo là biết sử dụng niệm, tự tại với niệm, và vô niệm thì vượt khỏi động tĩnh, sanh diệt, tăng giảm, dơ sạch…, nghĩa là niệm đồng với vô niệm, chính là tánh Không và tánh sáng.

Lục Tổ Huệ Năng nói với Sư Pháp Hải:

“Niệm trước chẳng sanh tức tâm

Niệm sau chẳng diệt tức Phật”.

Không sanh mà chẳng diệt, chứ không phải không sanh mà tịch diệtvô vi.

 

Dza Patrul Rinpoche (1808-1887), một vị Thầy Dzogchen Tây Tạng, giảng về Ba Lời Tuyên Bố Đánh Vào Những Điểm Thiết Yếu của Garab Dorje, trong cuốn The Golden Letters (Những Chữ Vàng, nxb Thiện Tri Thức, 2002).

Khi nói về sự khởi niệm, để giảng Lời Tuyên bố thứ Ba của Garab Dorje, ngài đã viết:

Vào lúc đó, bất cứ tham hay sân, vui hay buồn,

Bất cứ tư tưởng nào lan man khởi lên,

Trong trạng thái nhận biết chúng, người ta

không theo chúng.

Từ đó người ta nắm giữ sự nhận biết Pháp

  thân về mặt giải thoát,

Bấy giờ giống như vẽ hình trên mặt nước,

Không có cách hở giữa tự-sanh khởi

 (của những tư tưởng) và tự-giải thoát của chúng.

Bất cứ niệm nào khởi lên (trong tâm) đều thành

     thực phẩm cho tánh Giác trống không trần trụi;

Khi nào những chuyển động (của tư tưởng xảy ra),

 chúng biểu hiện năng lực sáng tạo của pháp thân;

Không để lại dấu vết, chúng tự-tịnh hóa.

A-la-la! 

Thiền sư Minh Châu Hương Hải (1629 – 1715) có bài kệ:

Nhạn qua trời không

Ảnh chìm nước lạnh

Nhạn không có ý để dấu

Nước không có tâm giữ ảnh.

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 94)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(View: 125)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(View: 133)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(View: 126)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo pháp là Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(View: 623)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(View: 210)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(View: 195)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(View: 238)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(View: 214)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(View: 269)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(View: 246)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(View: 238)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(View: 717)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(View: 598)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiên và xã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(View: 611)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(View: 570)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(View: 635)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(View: 643)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(View: 619)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn Độ là Bà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(View: 569)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(View: 573)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(View: 559)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(View: 641)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(View: 610)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(View: 650)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(View: 591)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(View: 635)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(View: 610)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(View: 570)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(View: 598)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(View: 609)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(View: 840)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(View: 564)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(View: 471)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(View: 556)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(View: 581)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(View: 582)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(View: 555)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(View: 533)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(View: 517)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(View: 479)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(View: 730)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(View: 494)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(View: 469)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(View: 511)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(View: 551)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(View: 565)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(View: 489)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(View: 550)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM