Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tôn Giáo Trong Tương Lai

25 Tháng Tám 202216:13(Xem: 2226)
Tôn Giáo Trong Tương Lai
Tôn Giáo Trong Tương Lai 
(The Religion Of The Future) 

Anam Thubten Rinpoche
 Thích Vân Phong

Nhu Cầu Hạnh Phúc



Gần đây
 một báo cáo Trung tâm nghiên cứu Pew, bể tư duy lớn thứ ba ở Washington, DC, dự đoán rằng một số tôn giáo lớn trên thế giới sẽ mở rộng, ngoại trừ đáng quan tâm là đạo Phật, những tôn giáo được dự báo sẽ giảm trong vài thập kỷ tới. Do đó các bạn có thể tìm thấy, thật khó hiểu khi tôi sẽ đặt tên cho Phật giáo là tôn giáo trong tương lai khi Trung tâm nghiên cứu Pew đang dự đoán về sự suy tàn của tôn giáo.

 

Cuối cùng, không có một khía cạnh nào của trí tuệ Phật giáo mà khoa học có thể phủ nhận được, từ khái niệm luân hồi đến tính không. Sự luân hồi được hiểu trong đạo Phật hoàn toàn khác với sự miêu tả của Ấn Độ giáoĐức Phật dạy răng, cái "Ngã" (Tôi) cá nhân ích kỷ không tồn tại và cái du chuyển từ đời này sang đời khác là ý thức thuần túy. Vì không có gì tuyệt chủng hoàn toàn trong vũ trự - nó chỉ thay đổi về hình thức - ý thức của chúng ta sẽ tiếp tục tồn tại. Theo sự hiểu biết của tôi, không có khoa học chân chính nào có thể phủ nhận thuyết luân hồi của đạo PhậtSự thật là hầu hết các Phật tử không hiểu ý nghĩa thực sự của luân hồi do Đức Phật thuyết; Sự hiểu biết của họ là vô thức dựa trên sự chuyển đổi của một số loại bải thân cá nhân tự trị. Khoa học thần kinh hiện đại cũng đã đi đến kết luận rằng không có cái "Ngã" (Tôi) cá nhântương ứng với chính điểm tựa của giáo lý đạo Phật, "Vô ngã" (Skt: anatman).

 

Đạo Phật có cả một kho tàng giáo lý đa dạng và thực hành phong phú đáng kinh ngạc để phát triển tình yêu thương và từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh có thể được áp dụng phổ biếnxuyên thấu thời gian và các nền văn hóaChánh niệm hiện đã được mọi người từ mọi tầng lớp đón nhận một cách trọn vẹn. Ngày nay, các bạn sẽ thấy các giáo viên, giáo sư, chính trị gia, ngôi sao điện ảnh, cảnh sát và những quân nhân trong các lực lượng vũ trang quân đội thực hành chánh niệm, ngay cả ở thế giới phương Tây, nhờ sự lao động không biết mệt mõi của những bậc thầy phi thường như Tiến sĩ Tâm lý học Trị liệuGiáo thọ Thiền sư Cư sĩ Jack Kornfield và nhiều người khác. Lợi ích của thiền chánh niệm đã được chứng thực bằng thử nghiệm khoa học, điều này đang giúp làm cho việc thực hành thiền chánh niệm trở nên phổ biến mỗi ngày hơn. Ngay cả một số tín đồ và các vị chức sắc Thiên Chúa giáo và tín đồ Hindu giáo cũng đã chấp nhận sự hấp dẫn phổ quát và không thể phủ nhận sức mạnh phi thường trong thiền chánh niệm.

 

Dự đoán các tôn giáo khác sẽ phát triển, chủ yếu ở các nước đang phát triển, trong tương lai gần nơi sự phát triển giáo dục, kinh tế được cho là tụt hậu. Nhưng nền văn hóa này không chỉ giữ vững truyền thống của họ mà còn sinh ra nhiều thế hệ trẻ hơn vì sự an toàn cá nhân, tạo ra một thế hệ mới tiếp nối truyền thống và văn hóa của họ. Khi một xã hội trở nên thịnh vượng và giáo dục, công dân của họ nói chung trở nên khoa học và thế tục hơn.

 

Trái ngược với dự báo của Trung tâm nghiên cứu Pew, cuối cùng giả sử phần lớn thế giới có khả năng sẽ bước vào sân chơi câu lạc bộ "các quốc gia phát triển" và sẽ ngày càng trở nên hiện đại hóa. Sau đó, đạo Phật có thể là một sứ mệnh duy nhất là phục vụ nhu cầu tâm linh của nhiều người có thể không liên quan đến hữu thần. Đây là lý do tại sao Albert Einstein Nhà khoa học vĩ đại nhất thế kỷ 20 (1879-1995) nói rằng: “Nếu có một tôn giáo nào tương thích với những nhu cầu khoa học tiên tiến thì đó chính là Phật giáo”. Tôi không nói rằng, chúng ta nên thay đổi Phật giáo để phù hợp với khoa học - những nỗ lực như thế nguy hiểm và có thể làm giảm sự thậm thâm vi diệu của bản chất đạo Phật. Thay vào đó, là một lời kêu gọi để nhận ra rằng, về bản chất đạo Phật đã mang tính khoa học. Tôi cũng không cố tạo ra một nhịp cầu nối giữa khoa học hiện đại và đạo Phật bằng cách thúc đẩy các nhà khoa học, chẳng hạn như lý thuyết về thiết kế thông minh, một khái niệm do một số nhà hữu thần phát minh ra ý định cụ thể.

 

Các vị tăng sĩ, giáo thụ sư, giảng sư Phật học Châu Á phải thức tỉnh thực tế này. Họ không chỉ nên tập trung vào việc thực hành thiền định cho bản thân mà còn nên dạy cho các cộng đồng cư sĩ Phật tử tại gia biết cách ứng dụng thiền định trong cuộc sống thường nhật, chẳng hạn như thiền tứ niệm xứ . . . Họ nên giảng dạy giáo lý căn bản cho đại chúng về Tứ diệu đế, 37 phẩm trợ đạo, bằng ngôn ngữ hiện đại để phổ cập đại chúng có thể hiểu biết về thân phận con người và đối phó với những thách thức trong cuộc sống của họ một cách khôn ngoan. Họ nên thực hiện các khóa tu tập thiền định trong nhiều môi trường khác nhau và chào đón tất cả mọi tầng lớp xã hội, bất kể xuất thân, học vấn hay tình trạng kinh tế của họ.

 

Giáo thụ Thiền sư Cư sĩ Satya Narayan Goenka (1924-2013) là một nhân vật truyền cảm hứng cho tất cả chúng ta trong lĩnh vực này. Sau khi học thiền chánh niệm tại Myanmar, ông chuyển đến Ấn Độ để chia sẻ những gì ông đã học được. Ngày nay có rất nhiều trung tâm thiền Vipassana của ông, nơi tất cả mọi người đều được đón nhận. Khi còn sinh tiền, ông đã thực hiện khóa tu thiền Vipassana 10 ngày tại các nhà tù và kết quả đáng kinh ngạcMiễn là chúng ta tập trung vào việc thực hành thiền định và diễn giải Phật pháp bằng ngôn ngữ đương đại, nó có thể tiếp tục phát triển trên thế giới như một động lực cho hòa bình, hạnh phúc và trí tuệ. Với những giá trị này, nó có sức hấp dẫn đối với những giới trí thức.

 

Cũng rất tốt khi xem những lúc thăng trầm, tại sao có thời suy tàn của Phật giáo Nhật Bản và Hàn Quốc. Ngày xưa, những quốc gia này là những Vương quốc Phật giáo thực sự. Trải qua thời hoàng kim của Phật giáo trên bán đảo Triều Tiên vào thời đại Silla (57 trước Tây lịch-935 Tây lịch). Hiện nay, giới trẻ tại Hàn Quốc rất ít quan tâm đến đạo Phật; có lẽ họ quan tâm hơn đến việc học Anh ngữ hoặc lời hát K-pop. Nhật Bản cũng ngày càng trở nên thế tục và Phật giáo ở xứ Hoa Anh Đào này đang chết dần mòn theo thời gianNguyên nhân của sự phát triển này bắt nguồn từ thời Minh Trị Thiên hoàng (1868-1912), khi đất nước nghiêng hẳn về hiện đại hóa toàn diện. Như tôi đã đề cập trước đó, giải pháp của tôi cho một tình huống đáng lo ngại như thế có thể nằm ở hai điểm: thứ nhất, truyền bá phong trào tu tập thiền định vào xã hội chính thống và giảng dạy Phật pháp bằng ngôn ngữ đương đại để đáp ứng nhu cầu của con người thời đại chúng ta.

 

Qua những chuyến viếng thăm các nước ở Châu Á, tôi đã thấy rõ rằng nhiều cư sĩ Phật tử hành hương chiêm bái các ngôi già lam tự viện Phật giáo, thỉnh chư tôn tịnh đức tăng già về tư gia làm lễ, tham dự các đại lễ trai đàn Phật giáo như các Pháp hội Kỳ Quốc thái Dân an, hay trai đàn Chẩn tế bạt độ âm hồn, cầu phúc thọ khương ninh, tuy nhiên chúng tôi hiếm khi thấy ai thực hành thiền định hay chiêm nghiệm những giáo lý chân chính của đạo Phật. Nếu xu hướng này cứ tiếp diễn, ai biết được tương lai sẽ ra sao cho truyền thống tuyệt vời mà tất cả chúng ta yêu thích này.

 

Thế giới đang thay đổi với công nghệ kỹ thuật số và khả năng tiếp cận thông tin vượt trội - kiến thức cũng sẽ thay đổi ý thức của tập thể. Những gì mọi người muốn trong hiện tại có thể không phải là những gì họ muốn trong tương lai. Tại phương Tây, các tôn giáo Thiên Chúa giáo truyền thống đang tan biến nhanh chóng đến mức nhiều quốc gia châu Âu trở nên thế tục hóa hầu hết mọi khía cạnh. Một xã hội thế tục hóa không có tâm linh có thể đi kèm với nhiều vấn đề, chẳng hạn như thiếu trau dồi nội lực tự tâmtinh thần từ bibác ái, sự cảm thông và lòng vị tha. Đã đến lúc chư tôn tịnh đức tăng già lãnh đạo Phật giáo phải suy nghĩ lại về cách chúng ta sẽ duy trì Phật pháp phi thường này để phục vụ hạnh phúc cho toàn thể nhân loại.

 

Tác giả Anam Thubten Rinpoche lớn lên ở Tây Tạng và ngay từ khi còn nhỏ đã bắt đầu thực hành theo truyền thống Ninh Mã, thuộc Kim Cương thừa Mật tông Tây Tạng. Trong số rất nhiều vị thầy của Ngài, những người hướng dẫn tiêu biểu nhất của Ngài là Lạt Ma Tsurlo, Khenpo Chopel, và Lạt Ma Garwang.

 

Ngài là người sáng lập và cố vấn tinh thần Quỹ Dharmata, giảng dạy Phật pháp rộng rãi ở Hoa Kỳ và quốc tế. Ngài là tác giả của nhiều bài báo và các cuốn sách bằng cả tiếng Tây Tạng và Anh ngữ.

 

Tác giả Anam Thubten Rinpoche

Biên dịch Thích Vân Phong

(Nguồn: Buddhistdoor Global)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 770)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1096)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 995)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 754)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 820)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 792)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 821)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 979)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 920)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1002)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 895)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 949)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1003)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1142)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1604)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1248)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 965)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 949)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 793)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1351)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1263)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1365)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1321)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1466)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant