Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hiểu Đúng Về Nghiệp

30 Tháng Chín 202215:32(Xem: 2122)
Hiểu Đúng Về Nghiệp
Hiểu Đúng Về Nghiệp

Thích Hạnh Hoằng

Hiểu Đúng Về Nghiệp

Khi có một điều không may mắnbất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp. Nói về nghiệp, mọi người đều cho đó là chủ trương của đạo Phật.

Thực chấtĐức Phật tuy có dạy về nhân quả - nghiệp báo nhưng Ngài không hề nói rằng tất cả những gì chúng ta gặp phải trong đời sống hiện tại đều do tác động hay ảnh hưởng của nghiệp kiếp trước. Nếu ai nói vậy thì đã rơi vào thuyết định mệnh hay thuyết nghiệp của đạo Jain (Kỳ-na giáo).

Chủ trương nghiệp của đạo Jain

Phàm cảm giác gì con người này lãnh thọlạc thọkhổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, tất cả đều do nhân các nghiệp quá khứ”1.

Dựa theo lời Đức Phật dạy về nghiệp, ta có thể nói rằng quan điểm trên của đạo Jain là không chính xác. Vì sao? Vì nếu đúng thật tất cả các cảm thọ ở hiện tại đều do nhân của quá khứ đời trước thì ta đã rơi vào thuyết định mệnh, tức mọi việc đã được an bài, được sắp xếp và đã sinh ra ở đời thì ta chỉ có gánh chịu, chấp nhận mà thôi. Nếu mọi chuyện đã được an bài thì ta học, làm việc, nỗ lực có ích gì? Bởi tất cả đã được định sẵn rồi thì ta có làm gì cũng vô ích nên phải chấp nhận, đây là quan điểm về nghiệp của đạo Jain.

Phản biện lại quan điểm nghiệp của đạo Jain, Đức Phật nói rằng: “Như vậy, thời theo các Tôn giả, do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người sát sanh; (...); do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người tà kiến”2.

Ngài dạy thêm rằng những ai chỉ dựa vào nghiệp quá khứ thì sẽ không có ước muốn, không có sự tinh tấn và không xác quyết được rằng “Đây là việc phải làm” hay “Đây là việc không nên làm”3.

Đạo Jain chủ trương “thân tội”họ quy tất cả là do thân tác thành, vì chỉ nhìn thấy thân tạo tội nên họ thực hành khổ hạnh một cách tinh cầntinh tấn nhưng điều này không đem lại kết quả giải thoát nào cả. Đây cũng chính là điều mà Đức Phật đã nhận ra khi thực hành pháp khổ hạnh, đó là tư tưởng sai lầm, là điều nên từ bỏ. Và trí tuệ sẽ không thể phát sinh trong một thân thể không có sức sống, ốm yếu, sắp ngã quỵ và càng khổ hạnh một cách tinh cầntinh tấn sẽ chỉ đem lại các khổ thọ cho thân và tâm mà thôi, hoàn toàn không có lợi ích.

Nghiệp theo quan điểm của đạo Phật

“Ta chủ trương ý nghiệp là tối trọng, để tác thành ác ý, để diễn tiến ác nghiệpthân nghiệp không bằng được, khẩu nghiệp không bằng được”4.

Sau khi khổ hạnh suốt 6 năm mà vẫn không thành tựu đạo quảĐạo sĩ Gotama đã tìm ra con đường giữa (trung đạo-tránh xa hai cực đoan), vừa không khổ hạnh ép xác một cách vô ích lại không hưởng thụ dục lạc xa hoa sinh đắm nhiễm. Ngài phát hiện ra tất cả nghiệp đều phát xuất từ nơi suy nghĩ, tâm ý của chúng ta chứ không phải do thân và miệng, thân miệng cũng tạo nghiệp nhưng chủ đạo, dẫn dắt vẫn là ý nghiệp.

Ý nghiệp chính là “cetana” nghĩa là tác ý, hay còn gọi là tư tâm sở, tức những hành động có chủ ý, có tác động dẫn đến nghiệp.

Đức Phật không chủ trương khổ ở hiện tại để hưởng vui ở tương lai (như đạo Jain) mà Ngài dạy chúng ta nên làm các việc thiện lành ở hiện tại để được một tương lai tươi sáng tốt đẹp hơn. Bởi quá khứ thì đã trôi quachúng ta có tìm cầu cũng không ích lợi. Không những thế, chúng ta cũng không rõ biết về quá khứ, vậy mãi nhìn về quá khứ để làm gì?

Đạo Phật cũng hướng con người đến tương lai nhưng tương lai không hoàn toàn mang ý nghĩa là đời sau mà ngay trong đời sống hiện tại. Như hiện tại nghèo khóchúng ta hoàn toàn có thể cố gắng, phấn đấu học tập và làm việc thì tương lai sẽ no ấm. Còn nếu không mong thoát nghèo mà chỉ biết an phậnxem như số phận mình phải chấp nhận thì hiện tại và tương lai của ta sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi nghèo khổ. Đó cũng chính là hoạt dụng của “cetana”, có chức năng chuyển nghiệp và người chuyển nghiệp chính là tự thân chúng ta chứ không một ai khác cả.

Đức Phật không những dạy chúng ta nên tránh xa điều dữ mà Ngài còn dạy cố gắng nỗ lực làm các việc thiện lành trong khả năng của mình. Vì không làm việc ác là lợi ích cho bản thân, còn làm lành sẽ đem lại ích lợi cho nhiều người, cho cuộc đời và tất cả chúng sinh.

Những nhầm lẫn về nghiệp của đạo Jain và đạo Phật

Nếu không tìm hiểu kỹ về những lời dạy của Đức Phậtchúng ta có thể nhầm lẫn những quan điểm về nghiệp của đạo Jain rồi cho là của đạo Phật.

Thực tế là mỗi khi có điều không may xảy đến, chúng ta thường nói rằng do “đổ nghiệp” hay “do nghiệp kiếp trước”, nếu nói như vậy ta rất dễ bị rơi vào quan điểm nghiệp của đạo Jain. Cứ đổ hết cho nghiệp kiếp trước, dù là bị bệnh, bị trộm, thất nghiệp, bị lừa gạt, thi rớt, học yếu, v.v... bất cứ thứ gì xảy ra mà ta không muốn, không thích hoặc không tốt thì ta đều phán cho nó một từ đó là nghiệp, mặc dù không hiểu nhiều về nghiệp.

Đức Phật xác định rằng, có nghiệp quá khứ (đời trước) và nó có tác động nhất định đến đời sống hiện tại của ta một phần hay một phương diện nào đó. Tuy nhiênĐức Phật đã thấy rõ, biết rõ mọi việcmọi vật nên mới có thể nói như vậy. Hiện thời ai có thể thấy được như Đức Phật chăng? Nếu có thì họ được quyền nói như vậy. Còn chính bản thân người viết chưa có được cái thấy như vậy nên sẽ không bao giờ dám nói đó có phải do nghiệp quá khứ (đời trước) hay không vì rất nhiều vấn đề chỉ do nghiệp của đời này.

Thật ra, đó có phải là nghiệp kiếp trước hay không thì có gì quan trọng? Điều quan trọng và thiết thực là ta đã và đang làm gì ở hiện tại, tạo nghiệp mới thiện lành để chuyển hóa thực tiễn hay không. Vì nghiệp thì có thể chuyển được, đó mới là cái hay của cuộc sống, là điều thú vị trong giáo lý nghiệp của đạo Phật. Nếu Đức Phật cũng nói nghiệp như các vị ngoại đạo kia thì ta học theo Ngài để làm gì, vì nghiệp đâu có thay đổi được. Chính vì thế mỗi người học Phật, nên tìm hiểu và chiêm nghiệm sâu về những lời Đức Phật dạy để tránh những nhầm lẫn hay ngộ nhận đáng tiếc.

Đạo Jain tuy có những điểm giống Phật giáo như không chấp nhận thẩm quyền của Veda, không chấp nhận việc tế lễ, không làm các việc bất thiện, có giáo lý nhân quả, có chủ trương về nghiệp. Nhưng quan điểm về nghiệp không tương đồng khi nói nghiệplà hoàn toàn do nhân quá khứ đời trước, với chủ trương “thân tội”nên họ nỗ lực khổ hạnh ép xác.

Tuy cả hai đều có chủ trương về nghiệp nhưng chúng ta có thể thấy rất rõ rằng chủ trương nghiệp của đạo Jain rất phiến diện, chủ trương “thân tội” vốn không phù hợp và nếu ta thực hànhtư duy theo sẽ không có lợi íchPhật giáo chủ trương nhân quả-nghiệp báo rất rõ ràngminh bạchphù hợp với chân lý nếu ta tư duy và thực hành theo đúng như những gì Đức Phật đã dạy sẽ có nhiều lợi ích.

Quan trọng là tạo nghiệp mới thiện lành

Mong rằng mỗi khi gặp việc không may xảy đến, chúng ta đừng vội kết luận và đổ tất cả đó là do nghiệp đời trước bởi rất nhiều điều là nghiệp của đời này. Nghiệp theo Phật giáo có nghiệp cũ và nghiệp mới. Nghiệp cũ được tạo ra từ đời trước hay quá khứ của đời này. Nghiệp mới là những tạo tác xảy ra gần đây. Điều quan trọng là chúng ta có thể chủ động tạo nghiệp mới thiện lành, nhất là năng lực của nghiệp mới có thể tác động lên nghiệp cũ khiến cho chuyển hóa, thay đổi thực tiễn, khiến chuyện lớn hóa nhỏ, việc nhỏ hóa không.

Kinh Tăng chi bộ (phẩm Hạt muối) Đức Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, ví như có người bỏ nắm muối vào trong một chén nước nhỏ, nước trong chén ấy vì nắm muối trở thành mặn và không uống được. Nhưng có người bỏ nắm muối vào nước sông Hằng, khối nước ấy rất lớn không vì nắm muối này mà trở thành mặn và không uống được”. Nắm muối là nghiệp cũ, nước trong chén hay nước sông Hằng là nghiệp mới. Vì thế, nếu chúng ta nỗ lực tạo ra nghiệp mới thiện lành như nước sông Hằng thì ngại gì nghiệp cũ.

Mục đích của người học Phật là an lạcgiác ngộ và giải thoát, muốn được như thế thì ngay trong hiện tại ta phải hiểu rõ về nghiệp mà Đức Phật đã dạy để tích cực tạo ra nghiệp mới thiện lành, chuyển xấu thành tốt, hóa khổ thành vui.

__________________

1- Kinh Trung bộ, 101. Kinh Devadaha (Devadaha sutta), HT.Thích Minh Châu dịch, (2012), Nxb Tôn Giáo - Hà Nội, trang 271.

2 - Kinh Tăng chi bộ, chương Ba pháp, VII. Phẩm Lớn, 61. Sở y xứ (Titthayatana), HT.Thích Minh Châu dịch, (1996), Nxb Tôn Giáo - Hà Nội, trang 311-312.

3 - Sđd, trang 313.

4 - Kinh Trung bộ, 56. Kinh Ưu-ba-ly (Upali sutta), HT.Thích Minh Châu dịch, (2012), Nxb Tôn Giáo - Hà Nội, trang 456.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 786)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 688)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 719)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 705)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 797)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 939)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1409)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 957)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1000)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 751)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 764)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 628)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1293)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1170)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1143)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1233)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1159)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1035)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1156)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1126)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1244)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1134)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1196)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1174)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1751)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1148)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1178)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1289)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1174)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant