Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con Đường Vô Ngã

26 Tháng Mười 202215:14(Xem: 1784)
Con Đường Vô Ngã
Con Đường Vô Ngã

HT. Thích Thông Phương


chua 1

Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác. Do vậy, Lục Tổ Huệ Năng dạy vị tăng Pháp Đạt, “Có ta tội liền sanh, không ta phước vô kể.”

Tức là vị tăng này chấp có “ta” tụng kinh, tụng được 3,000 bộ kinh Pháp Hoa nên lạy Tổ mà đầu không sát đất. Bởi vị này ở xa nghe tiếng Tổ chứ không kính lắm, chỉ lạy bất đắc dĩ nên Lục Tổ mới quở: Tụng kinh mà có “ta” thì chưa được, có “ta” tụng kinh, “ta” ngồi thiềncần phải xem chừng cái ta đó.

Như vậy, người tu đúng pháp thì phải tiêu mòn cái ngã. Mình chưa phải thánh, chưa phải Phật thì chưa hết nhưng phải từng bước, từng bước bào mòn. Ví dụ như mình mới tu thì tình chấp còn nặng, nhưng tu một năm, hai, ba năm thì nó phải vơi đi bớt chứ không phải nó còn y nguyên hoặc nặng hơn nữa thì nguy hiểm!

Có những trường hợp tu càng lâu thì nó càng to hơn nữa: Mới vô tu thì còn e dè, khiêm tốn, nhường nhịn người này người kia, nhưng khi nghĩ rằng “Tôi là người tu lâu” thì sao? Khi tụng kinh hay ngồi thiền mà sắp mình ngồi tuốt phía sau thì có vui không? Do vậy, mình phải hiểu, tu càng lâu thì tình chấp ngã phải càng bớt, càng nhẹ, như vậy mới đúng, chứ càng tu mà tình chấp càng thêm nữa thì không phải. Đó là lẽ thật. Anh tu lâu, chứng đạongộ đạo nhưng phải hỏi lại “Cái ngã anh sao rồi?” Nếu nói tu cao mà cái ngã của anh cũng cao nữa thì không phải rồi.

Đức Phật trong thời kỳ còn tu Bồ-tát hạnh thì Ngài hy sinh đầu, mắt, v.v.. Có kiếp thấy con hổ đói khổ nên Ngài đem thân của mình cho ăn. Nhưng nó đói quá không còn sức để ăn nữa nên Ngài chích máu cho nó liếm. Khi có sức rồi, nó mới đứng dậy ăn! Cho đến khi Ngài đã thành Phật, trên đường đi hóa đạo thì những người theo đạo Bà-la-môn quy y theo Ngài nhiều nên ông thầy Bà-la-môn của họ trước đây lấy làm giận tức.

Một hôm, trên đường Phật đi khất thực, ông cứ đi theo sau mắng chửi. Chửi một hồi mà Phật vẫn yên lặng đi, ông bèn chạy lại đằng trước chặn đường Phật và hỏi, “Cù-đàm! Ông thua tôi chưa?”

Phật thong thả nói bài kệ:

Kẻ hơn thì thêm oán,
Người thua ngủ chẳng yên.
Hơn thua hai đều xả,
Ấy được an ổn ngủ.

Người đời là vậy đó! Còn chấp ngã thì thấy cái gì cũng muốn hơn, mà hơn thì người kia oán mình, trái lại nghĩ mình thua thì tối ngủ cũng không được, phải tìm cách gì đó để mai mình hơn trở lại. Hơn hay thua đều bất an hết. Đó cũng là do có cái “tôi,” nên đây Phật nói hơn thua hai đều xả hết thì nằm duỗi hai chân ngủ an ổn. Như vậy, Phật cũng còn bị chửi huống chi mình, nhưng Ngài không có cái “tôi” nên ông Bà-la-môn chửi ai thôi chứ không phải chửi Ngài, do đó Ngài không khổ. Còn mình nghe chửi thì “Nó chửi tôi đó!” nên thành khổ! Nên biết, sở dĩ họ chửi là để chọc cho mình tức, nếu mình sân mà chửi lại thì đó là rơi vào bẫy. Còn bây giờ họ chửi nhưng mình nói: “À! Không có gì cả!” thì họ không làm gì được, là thoát bẫy. Phật dạy là như vậy, đó là để cho mình giải tỏa nhẹ dần đau khổ.

Thiền sư Đạo Nguyên có dạy, “Học đạo là học tự ngã, mà học tự ngã là buông bỏ tự ngã, và buông bỏ tự ngã là chứng các pháp.”

Học đạo là học như vậy: “Học đạo là học tự ngã, mà học tự ngã là buông bỏ tự ngã, mà buông bỏ tự ngã là chứng các pháp.” Tức là sống được với đạo, Ngài tổng kết thật đơn giản. Nhiều khi nghĩ mình học đạo là học cái này, cái kia v.v. cho nhiều mà không ngờ học nhiều hiểu nhiều thì thêm ngã nữa: “Tôi hiểu đạo nhiều!” Đó là nguy hiểm.

Như vậy, Thiền sư Đạo Nguyên tóm tắt rất đơn giản mà lại đầy đủ ý nghĩa. Đây không phải nói suông thôi mà Ngài còn thực hành trong đời sống của Ngài nữa. Lúc Ngài khoảng 48 tuổi đời, một hôm một vị đệ tử có chức vụ trong Thiền Viện của Ngài hãnh diện đến báo tin, “Có vị lãnh chúa trong vùng phát tâm cúng dường một miếng đất cho Thiền viện.” Nếu là người khác mà nghe vậy thì chắc mừng lắm, nhưng vừa nghe xong thì Ngài lột y ông tăng đang mặc đó và đuổi ra khỏi Thiền Viện! Không những vậy, Ngài Đạo Nguyên còn cho khoét cái sàn ngồi thiền chỗ ông tăng đó và đào sâu xuống đất.

Sau đó, Ngài bảo, “Dính mắc vào danh lợi còn xấu xa hơn phạm giới. Phạm những giới luật thì chỉ khổ trong chốc lát, còn dính mắc vào danh lợi là khổ cả ngàn đời!”

Người xưa nghiêm khắc như vậy! Đây là Ngài cảnh cáo, mà cũng là kinh nghiệm cho người tu và người học Phật. Người học Phật thì phải đi qua con đường vô ngã, phải bớt phải nhẹ dần. Có câu chuyện về ông Tô Đông Pha, một hôm ông cảm hứng làm bài kệ:

Khể thủ thiên trung thiên,
Hào quang chiếu đại thiên.
Bát phong xuy bất động,
Đoan tọa tử kim liên.

        Dịch:

Cúi đầu lễ Thế Tôn,
Hào quang chiếu ba ngàn.
Tám gió thổi chẳng động,
Ngồi thẳng trên đài sen.

Rồi ông sai người đi qua sông đem trình Thiền sư Phật Ấn. Ngài Phật Ấn bèn đề hai chữ: “Đánh rắm!” bảo đem về đưa cho ông. Khi ông mở ra đọc thì nổi nóng lên liền! Ông bèn lập tức lấy thuyền qua sông gặp Thiền sư Phật ẤnThiền sư Phật Ấn ra trước đón ông và bảo, “Tám gió thổi không động nhưng chỉ cần một cú “đánh rắm” đã thổi ông từ bên kia sông qua tới bên đây rồi!.” Rõ ràng, đó là cái “tôi” bị xúc phạm mà ra.

Do vậy, người học đạo phải thực hành, phải thực sống. Mỗi vị tự kiểm lại, năm nay mình tu học được một năm thì cái ngã có bớt chút nào không? Nếu không bớt thì năm tới phải ráng bớt, chứ không thể năm tới cũng giống như năm nay. Mà giải trừ chấp ngã cuối cùng là đưa đến vô ngã. Vậy tu đến cuối cùng thì có ta hay không? Đó mới quan trọng. Nếu có thì tu đến cuối cùng cũng như phàm phu, vậy tu làm chi? Còn nếu không thì cuối cùng như cây như đá, vậy tu để làm gì?

Do vậy, nếu học không kỹ, không tới nơi thì dễ lầm lạc, ở đây quý thầy chỉ gợi ý thôi chứ trong nhà Thiền mà nói có hay không là không được rồi. Nếu hoàn toàn vô ngãcuối cùng không còn gì hết thì cái gì rõ được vô ngã để chỉ dạy lại cho người khác? Bởi vậy, có hay không thì quý vị tự nghiệm là biết.

Có câu chuyệnTôn giả Nghiêm Dương đến hỏi Ngài Triệu Châu, “Khi con không còn vật gì để đem đến đây thì sao?”

Ngài Triệu Châu trả lời, “Vậy ông buông xuống đi!”

Ông thưa, “Con đã nói với Ngài là không có vật gì đem đến, vậy thì buông cái gì nữa?”

Ngài mới bảo, “Ông buông không được thì vác lên đi.”

Buông sạch hết, không còn gì để buông nữa thì lúc đó mới là chỗ sống của ông. Còn có cái gì để buông nữa thì không phải, vì có cái để buông thì còn có bóng dáng cái tôi, còn có hư vọng. Còn hư vọng thì buông được, còn chính mình thì làm sao buông, lấy gì để buông? Đó là chỉ cho những cái hư dối, những cái không thật, không phải mình mà chấp là mình. Cho nên, buông ở đây là buông cái tình chấp, cũng như phá là phá cái tình chấp, chứ không phải là có cái ngã để mình phá! Chính là mình thì làm sao mà phá, cho nên phá là phá cái tình chấp, cái mê lầm. Mà khi cái tình chấp, cái mê lầm hết thì đó mới chính là chỗ sống chân thật.

Cái này thì Phật ít nói đến vì nếu nói thì mình dễ hiểu lầm, chấp lầm cái đó với bản ngã, tức là chấp cái giả làm cái thật. Mà khi mình tự sạch hết những tình chấp thì mình biết liền, lúc đó không cần nói mình cũng biết. Còn bây giờ mà nói thì mình chỉ tưởng tượng khái niệm về nó.

Trong kinh, Phật thường dạy:

“Năm uẩn là vô ngãSắc không phải là ta, không phải là của ta. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Mắt không phải là ta, không phải là của ta. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng là như thế.”

Ngài nói năm uẩn không phải ta, không phải là của ta, nhưng Ngài vẫn nói Như Lai, vẫn nói Chánh giác. Cho nên, chỉ người có công phu tu hành thì thầm cảm nhận, chứ cứ lo giải thích theo chữ nghĩa thì nhiều khi hiểu lầm. Ví dụ như khi tình chấp sạch hết rồi mà Phật nói cái ngã ấy như thế này, như thế kia v.v. thì mình hiểu lầm nó là vật này, vật kia v.v. thì vô tình chấp ngã trở lại. Do vậy, đây cho thấy rằng mình không phải lo sợ khi buông xả hết, đến cuối cùng không còn gì hết, như cây như đá. Nếu lúc đó không còn gì hết thì làm sao Phật có thể thuyết pháp, có thể giảng kinh. Chư Tổ và các Thiền sư cũng như vậy, đó là lẽ thật.

Bản ngã là nguồn tội lỗi, là nguồn đi vào luân hồi sanh tử, chấp vào nó là vô minh, là mê lầm. Người tu Phật là đi trên con đường trí tuệ, trên con đường an vui giải thoát nên không thể đi theo vô minh được. Do vậy, mình phải nhận kỹ, phải giải trừ tình chấp ngã này chứ không cố bám chấp vào nó để đau khổ mãi.

Cuộc sống hiện tại của mình đây có ngăn cách nhau, không đến được với nhau là cũng vì cái ngã này. Bởi cái ngã đó ngăn cách nên mình mới không thông cảm nhau, còn nếu giảm bớt, nhẹ bớt cái ngã thì mình dễ đến với nhau. Do vậy, nhắc nhở đây để mình tu hành đúng theo chánh pháp, không có sai. Quý vị nắm vững cái này thì không ai gạt được mình hết.

Ai nói, “Tôi tu hay, tu giỏi v.v.. Tôi thế này, thế kia v.v..” thì kiểm lại xem cái ngã có giỏi, có cao không? Nếu tu cao mà cái ngã còn cao là không phải, như vậy thì mình biết nên không lầm theo. Mong rằng bài pháp này sẽ giúp cho mỗi người sống cởi mở với nhauđến gần nhau, thật hiểu nhau hơn và luôn sống vui nhẹ bản ngã.

(Trích từ bài pháp thoại “Giải Trừ Bản Ngã” của Hòa Thượng Thích Thông Phương được đăng trên trang Facebook “Thiền sư Thích Thanh Từ và những lời dạy.”)

Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác. Do vậy, Lục Tổ Huệ Năng dạy vị tăng Pháp Đạt, “Có ta tội liền sanh, không ta phước vô kể.”

Tức là vị tăng này chấp có “ta” tụng kinh, tụng được 3,000 bộ kinh Pháp Hoa nên lạy Tổ mà đầu không sát đất. Bởi vị này ở xa nghe tiếng Tổ chứ không kính lắm, chỉ lạy bất đắc dĩ nên Lục Tổ mới quở: Tụng kinh mà có “ta” thì chưa được, có “ta” tụng kinh, “ta” ngồi thiềncần phải xem chừng cái ta đó.

Như vậy, người tu đúng pháp thì phải tiêu mòn cái ngã. Mình chưa phải thánh, chưa phải Phật thì chưa hết nhưng phải từng bước, từng bước bào mòn. Ví dụ như mình mới tu thì tình chấp còn nặng, nhưng tu một năm, hai, ba năm thì nó phải vơi đi bớt chứ không phải nó còn y nguyên hoặc nặng hơn nữa thì nguy hiểm!

Có những trường hợp tu càng lâu thì nó càng to hơn nữa: Mới vô tu thì còn e dè, khiêm tốn, nhường nhịn người này người kia, nhưng khi nghĩ rằng “Tôi là người tu lâu” thì sao? Khi tụng kinh hay ngồi thiền mà sắp mình ngồi tuốt phía sau thì có vui không? Do vậy, mình phải hiểu, tu càng lâu thì tình chấp ngã phải càng bớt, càng nhẹ, như vậy mới đúng, chứ càng tu mà tình chấp càng thêm nữa thì không phải. Đó là lẽ thật. Anh tu lâu, chứng đạongộ đạo nhưng phải hỏi lại “Cái ngã anh sao rồi?” Nếu nói tu cao mà cái ngã của anh cũng cao nữa thì không phải rồi.

Đức Phật trong thời kỳ còn tu Bồ-tát hạnh thì Ngài hy sinh đầu, mắt, v.v.. Có kiếp thấy con hổ đói khổ nên Ngài đem thân của mình cho ăn. Nhưng nó đói quá không còn sức để ăn nữa nên Ngài chích máu cho nó liếm. Khi có sức rồi, nó mới đứng dậy ăn! Cho đến khi Ngài đã thành Phật, trên đường đi hóa đạo thì những người theo đạo Bà-la-môn quy y theo Ngài nhiều nên ông thầy Bà-la-môn của họ trước đây lấy làm giận tức.

Một hôm, trên đường Phật đi khất thực, ông cứ đi theo sau mắng chửi. Chửi một hồi mà Phật vẫn yên lặng đi, ông bèn chạy lại đằng trước chặn đường Phật và hỏi, “Cù-đàm! Ông thua tôi chưa?”

Phật thong thả nói bài kệ:

Kẻ hơn thì thêm oán,
Người thua ngủ chẳng yên.
Hơn thua hai đều xả,
Ấy được an ổn ngủ.

Người đời là vậy đó! Còn chấp ngã thì thấy cái gì cũng muốn hơn, mà hơn thì người kia oán mình, trái lại nghĩ mình thua thì tối ngủ cũng không được, phải tìm cách gì đó để mai mình hơn trở lại. Hơn hay thua đều bất an hết. Đó cũng là do có cái “tôi,” nên đây Phật nói hơn thua hai đều xả hết thì nằm duỗi hai chân ngủ an ổn. Như vậy, Phật cũng còn bị chửi huống chi mình, nhưng Ngài không có cái “tôi” nên ông Bà-la-môn chửi ai thôi chứ không phải chửi Ngài, do đó Ngài không khổ. Còn mình nghe chửi thì “Nó chửi tôi đó!” nên thành khổ! Nên biết, sở dĩ họ chửi là để chọc cho mình tức, nếu mình sân mà chửi lại thì đó là rơi vào bẫy. Còn bây giờ họ chửi nhưng mình nói: “À! Không có gì cả!” thì họ không làm gì được, là thoát bẫy. Phật dạy là như vậy, đó là để cho mình giải tỏa nhẹ dần đau khổ.

Thiền sư Đạo Nguyên có dạy, “Học đạo là học tự ngã, mà học tự ngã là buông bỏ tự ngã, và buông bỏ tự ngã là chứng các pháp.”

Học đạo là học như vậy: “Học đạo là học tự ngã, mà học tự ngã là buông bỏ tự ngã, mà buông bỏ tự ngã là chứng các pháp.” Tức là sống được với đạo, Ngài tổng kết thật đơn giản. Nhiều khi nghĩ mình học đạo là học cái này, cái kia v.v. cho nhiều mà không ngờ học nhiều hiểu nhiều thì thêm ngã nữa: “Tôi hiểu đạo nhiều!” Đó là nguy hiểm.

Như vậy, Thiền sư Đạo Nguyên tóm tắt rất đơn giản mà lại đầy đủ ý nghĩa. Đây không phải nói suông thôi mà Ngài còn thực hành trong đời sống của Ngài nữa. Lúc Ngài khoảng 48 tuổi đời, một hôm một vị đệ tử có chức vụ trong Thiền Viện của Ngài hãnh diện đến báo tin, “Có vị lãnh chúa trong vùng phát tâm cúng dường một miếng đất cho Thiền viện.” Nếu là người khác mà nghe vậy thì chắc mừng lắm, nhưng vừa nghe xong thì Ngài lột y ông tăng đang mặc đó và đuổi ra khỏi Thiền Viện! Không những vậy, Ngài Đạo Nguyên còn cho khoét cái sàn ngồi thiền chỗ ông tăng đó và đào sâu xuống đất.

Sau đó, Ngài bảo, “Dính mắc vào danh lợi còn xấu xa hơn phạm giới. Phạm những giới luật thì chỉ khổ trong chốc lát, còn dính mắc vào danh lợi là khổ cả ngàn đời!”

Người xưa nghiêm khắc như vậy! Đây là Ngài cảnh cáo, mà cũng là kinh nghiệm cho người tu và người học Phật. Người học Phật thì phải đi qua con đường vô ngã, phải bớt phải nhẹ dần. Có câu chuyện về ông Tô Đông Pha, một hôm ông cảm hứng làm bài kệ:

Khể thủ thiên trung thiên,
Hào quang chiếu đại thiên.
Bát phong xuy bất động,
Đoan tọa tử kim liên.

        Dịch:

Cúi đầu lễ Thế Tôn,
Hào quang chiếu ba ngàn.
Tám gió thổi chẳng động,
Ngồi thẳng trên đài sen.

Rồi ông sai người đi qua sông đem trình Thiền sư Phật Ấn. Ngài Phật Ấn bèn đề hai chữ: “Đánh rắm!” bảo đem về đưa cho ông. Khi ông mở ra đọc thì nổi nóng lên liền! Ông bèn lập tức lấy thuyền qua sông gặp Thiền sư Phật ẤnThiền sư Phật Ấn ra trước đón ông và bảo, “Tám gió thổi không động nhưng chỉ cần một cú “đánh rắm” đã thổi ông từ bên kia sông qua tới bên đây rồi!.” Rõ ràng, đó là cái “tôi” bị xúc phạm mà ra.

Do vậy, người học đạo phải thực hành, phải thực sống. Mỗi vị tự kiểm lại, năm nay mình tu học được một năm thì cái ngã có bớt chút nào không? Nếu không bớt thì năm tới phải ráng bớt, chứ không thể năm tới cũng giống như năm nay. Mà giải trừ chấp ngã cuối cùng là đưa đến vô ngã. Vậy tu đến cuối cùng thì có ta hay không? Đó mới quan trọng. Nếu có thì tu đến cuối cùng cũng như phàm phu, vậy tu làm chi? Còn nếu không thì cuối cùng như cây như đá, vậy tu để làm gì?

Do vậy, nếu học không kỹ, không tới nơi thì dễ lầm lạc, ở đây quý thầy chỉ gợi ý thôi chứ trong nhà Thiền mà nói có hay không là không được rồi. Nếu hoàn toàn vô ngãcuối cùng không còn gì hết thì cái gì rõ được vô ngã để chỉ dạy lại cho người khác? Bởi vậy, có hay không thì quý vị tự nghiệm là biết.

Có câu chuyệnTôn giả Nghiêm Dương đến hỏi Ngài Triệu Châu, “Khi con không còn vật gì để đem đến đây thì sao?”

Ngài Triệu Châu trả lời, “Vậy ông buông xuống đi!”

Ông thưa, “Con đã nói với Ngài là không có vật gì đem đến, vậy thì buông cái gì nữa?”

Ngài mới bảo, “Ông buông không được thì vác lên đi.”

Buông sạch hết, không còn gì để buông nữa thì lúc đó mới là chỗ sống của ông. Còn có cái gì để buông nữa thì không phải, vì có cái để buông thì còn có bóng dáng cái tôi, còn có hư vọng. Còn hư vọng thì buông được, còn chính mình thì làm sao buông, lấy gì để buông? Đó là chỉ cho những cái hư dối, những cái không thật, không phải mình mà chấp là mình. Cho nên, buông ở đây là buông cái tình chấp, cũng như phá là phá cái tình chấp, chứ không phải là có cái ngã để mình phá! Chính là mình thì làm sao mà phá, cho nên phá là phá cái tình chấp, cái mê lầm. Mà khi cái tình chấp, cái mê lầm hết thì đó mới chính là chỗ sống chân thật.

Cái này thì Phật ít nói đến vì nếu nói thì mình dễ hiểu lầm, chấp lầm cái đó với bản ngã, tức là chấp cái giả làm cái thật. Mà khi mình tự sạch hết những tình chấp thì mình biết liền, lúc đó không cần nói mình cũng biết. Còn bây giờ mà nói thì mình chỉ tưởng tượng khái niệm về nó.

Trong kinh, Phật thường dạy:

“Năm uẩn là vô ngãSắc không phải là ta, không phải là của ta. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Mắt không phải là ta, không phải là của ta. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng là như thế.”

Ngài nói năm uẩn không phải ta, không phải là của ta, nhưng Ngài vẫn nói Như Lai, vẫn nói Chánh giác. Cho nên, chỉ người có công phu tu hành thì thầm cảm nhận, chứ cứ lo giải thích theo chữ nghĩa thì nhiều khi hiểu lầm. Ví dụ như khi tình chấp sạch hết rồi mà Phật nói cái ngã ấy như thế này, như thế kia v.v. thì mình hiểu lầm nó là vật này, vật kia v.v. thì vô tình chấp ngã trở lại. Do vậy, đây cho thấy rằng mình không phải lo sợ khi buông xả hết, đến cuối cùng không còn gì hết, như cây như đá. Nếu lúc đó không còn gì hết thì làm sao Phật có thể thuyết pháp, có thể giảng kinh. Chư Tổ và các Thiền sư cũng như vậy, đó là lẽ thật.

Bản ngã là nguồn tội lỗi, là nguồn đi vào luân hồi sanh tử, chấp vào nó là vô minh, là mê lầm. Người tu Phật là đi trên con đường trí tuệ, trên con đường an vui giải thoát nên không thể đi theo vô minh được. Do vậy, mình phải nhận kỹ, phải giải trừ tình chấp ngã này chứ không cố bám chấp vào nó để đau khổ mãi.

Cuộc sống hiện tại của mình đây có ngăn cách nhau, không đến được với nhau là cũng vì cái ngã này. Bởi cái ngã đó ngăn cách nên mình mới không thông cảm nhau, còn nếu giảm bớt, nhẹ bớt cái ngã thì mình dễ đến với nhau. Do vậy, nhắc nhở đây để mình tu hành đúng theo chánh pháp, không có sai. Quý vị nắm vững cái này thì không ai gạt được mình hết.

Ai nói, “Tôi tu hay, tu giỏi v.v.. Tôi thế này, thế kia v.v..” thì kiểm lại xem cái ngã có giỏi, có cao không? Nếu tu cao mà cái ngã còn cao là không phải, như vậy thì mình biết nên không lầm theo. Mong rằng bài pháp này sẽ giúp cho mỗi người sống cởi mở với nhauđến gần nhau, thật hiểu nhau hơn và luôn sống vui nhẹ bản ngã.

(Trích từ bài pháp thoại “Giải Trừ Bản Ngã” của Hòa Thượng Thích Thông Phương được đăng trên trang Facebook “Thiền sư Thích Thanh Từ và những lời dạy.”)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 137)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 163)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 176)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 180)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 196)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 240)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 227)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 236)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 230)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 270)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 261)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 213)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 160)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 189)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 217)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 301)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 376)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 388)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 361)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 349)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 367)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 627)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 582)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 856)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 451)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 688)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 506)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 490)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 391)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 511)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 477)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 669)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 460)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 859)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 584)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 580)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 980)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 687)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 578)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 880)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 551)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 679)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 653)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 630)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 642)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 642)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 538)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 710)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1024)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant