Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con Đường Vô Ngã

26 Tháng Mười 202215:14(Xem: 1654)
Con Đường Vô Ngã
Con Đường Vô Ngã

HT. Thích Thông Phương


chua 1

Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác. Do vậy, Lục Tổ Huệ Năng dạy vị tăng Pháp Đạt, “Có ta tội liền sanh, không ta phước vô kể.”

Tức là vị tăng này chấp có “ta” tụng kinh, tụng được 3,000 bộ kinh Pháp Hoa nên lạy Tổ mà đầu không sát đất. Bởi vị này ở xa nghe tiếng Tổ chứ không kính lắm, chỉ lạy bất đắc dĩ nên Lục Tổ mới quở: Tụng kinh mà có “ta” thì chưa được, có “ta” tụng kinh, “ta” ngồi thiềncần phải xem chừng cái ta đó.

Như vậy, người tu đúng pháp thì phải tiêu mòn cái ngã. Mình chưa phải thánh, chưa phải Phật thì chưa hết nhưng phải từng bước, từng bước bào mòn. Ví dụ như mình mới tu thì tình chấp còn nặng, nhưng tu một năm, hai, ba năm thì nó phải vơi đi bớt chứ không phải nó còn y nguyên hoặc nặng hơn nữa thì nguy hiểm!

Có những trường hợp tu càng lâu thì nó càng to hơn nữa: Mới vô tu thì còn e dè, khiêm tốn, nhường nhịn người này người kia, nhưng khi nghĩ rằng “Tôi là người tu lâu” thì sao? Khi tụng kinh hay ngồi thiền mà sắp mình ngồi tuốt phía sau thì có vui không? Do vậy, mình phải hiểu, tu càng lâu thì tình chấp ngã phải càng bớt, càng nhẹ, như vậy mới đúng, chứ càng tu mà tình chấp càng thêm nữa thì không phải. Đó là lẽ thật. Anh tu lâu, chứng đạongộ đạo nhưng phải hỏi lại “Cái ngã anh sao rồi?” Nếu nói tu cao mà cái ngã của anh cũng cao nữa thì không phải rồi.

Đức Phật trong thời kỳ còn tu Bồ-tát hạnh thì Ngài hy sinh đầu, mắt, v.v.. Có kiếp thấy con hổ đói khổ nên Ngài đem thân của mình cho ăn. Nhưng nó đói quá không còn sức để ăn nữa nên Ngài chích máu cho nó liếm. Khi có sức rồi, nó mới đứng dậy ăn! Cho đến khi Ngài đã thành Phật, trên đường đi hóa đạo thì những người theo đạo Bà-la-môn quy y theo Ngài nhiều nên ông thầy Bà-la-môn của họ trước đây lấy làm giận tức.

Một hôm, trên đường Phật đi khất thực, ông cứ đi theo sau mắng chửi. Chửi một hồi mà Phật vẫn yên lặng đi, ông bèn chạy lại đằng trước chặn đường Phật và hỏi, “Cù-đàm! Ông thua tôi chưa?”

Phật thong thả nói bài kệ:

Kẻ hơn thì thêm oán,
Người thua ngủ chẳng yên.
Hơn thua hai đều xả,
Ấy được an ổn ngủ.

Người đời là vậy đó! Còn chấp ngã thì thấy cái gì cũng muốn hơn, mà hơn thì người kia oán mình, trái lại nghĩ mình thua thì tối ngủ cũng không được, phải tìm cách gì đó để mai mình hơn trở lại. Hơn hay thua đều bất an hết. Đó cũng là do có cái “tôi,” nên đây Phật nói hơn thua hai đều xả hết thì nằm duỗi hai chân ngủ an ổn. Như vậy, Phật cũng còn bị chửi huống chi mình, nhưng Ngài không có cái “tôi” nên ông Bà-la-môn chửi ai thôi chứ không phải chửi Ngài, do đó Ngài không khổ. Còn mình nghe chửi thì “Nó chửi tôi đó!” nên thành khổ! Nên biết, sở dĩ họ chửi là để chọc cho mình tức, nếu mình sân mà chửi lại thì đó là rơi vào bẫy. Còn bây giờ họ chửi nhưng mình nói: “À! Không có gì cả!” thì họ không làm gì được, là thoát bẫy. Phật dạy là như vậy, đó là để cho mình giải tỏa nhẹ dần đau khổ.

Thiền sư Đạo Nguyên có dạy, “Học đạo là học tự ngã, mà học tự ngã là buông bỏ tự ngã, và buông bỏ tự ngã là chứng các pháp.”

Học đạo là học như vậy: “Học đạo là học tự ngã, mà học tự ngã là buông bỏ tự ngã, mà buông bỏ tự ngã là chứng các pháp.” Tức là sống được với đạo, Ngài tổng kết thật đơn giản. Nhiều khi nghĩ mình học đạo là học cái này, cái kia v.v. cho nhiều mà không ngờ học nhiều hiểu nhiều thì thêm ngã nữa: “Tôi hiểu đạo nhiều!” Đó là nguy hiểm.

Như vậy, Thiền sư Đạo Nguyên tóm tắt rất đơn giản mà lại đầy đủ ý nghĩa. Đây không phải nói suông thôi mà Ngài còn thực hành trong đời sống của Ngài nữa. Lúc Ngài khoảng 48 tuổi đời, một hôm một vị đệ tử có chức vụ trong Thiền Viện của Ngài hãnh diện đến báo tin, “Có vị lãnh chúa trong vùng phát tâm cúng dường một miếng đất cho Thiền viện.” Nếu là người khác mà nghe vậy thì chắc mừng lắm, nhưng vừa nghe xong thì Ngài lột y ông tăng đang mặc đó và đuổi ra khỏi Thiền Viện! Không những vậy, Ngài Đạo Nguyên còn cho khoét cái sàn ngồi thiền chỗ ông tăng đó và đào sâu xuống đất.

Sau đó, Ngài bảo, “Dính mắc vào danh lợi còn xấu xa hơn phạm giới. Phạm những giới luật thì chỉ khổ trong chốc lát, còn dính mắc vào danh lợi là khổ cả ngàn đời!”

Người xưa nghiêm khắc như vậy! Đây là Ngài cảnh cáo, mà cũng là kinh nghiệm cho người tu và người học Phật. Người học Phật thì phải đi qua con đường vô ngã, phải bớt phải nhẹ dần. Có câu chuyện về ông Tô Đông Pha, một hôm ông cảm hứng làm bài kệ:

Khể thủ thiên trung thiên,
Hào quang chiếu đại thiên.
Bát phong xuy bất động,
Đoan tọa tử kim liên.

        Dịch:

Cúi đầu lễ Thế Tôn,
Hào quang chiếu ba ngàn.
Tám gió thổi chẳng động,
Ngồi thẳng trên đài sen.

Rồi ông sai người đi qua sông đem trình Thiền sư Phật Ấn. Ngài Phật Ấn bèn đề hai chữ: “Đánh rắm!” bảo đem về đưa cho ông. Khi ông mở ra đọc thì nổi nóng lên liền! Ông bèn lập tức lấy thuyền qua sông gặp Thiền sư Phật ẤnThiền sư Phật Ấn ra trước đón ông và bảo, “Tám gió thổi không động nhưng chỉ cần một cú “đánh rắm” đã thổi ông từ bên kia sông qua tới bên đây rồi!.” Rõ ràng, đó là cái “tôi” bị xúc phạm mà ra.

Do vậy, người học đạo phải thực hành, phải thực sống. Mỗi vị tự kiểm lại, năm nay mình tu học được một năm thì cái ngã có bớt chút nào không? Nếu không bớt thì năm tới phải ráng bớt, chứ không thể năm tới cũng giống như năm nay. Mà giải trừ chấp ngã cuối cùng là đưa đến vô ngã. Vậy tu đến cuối cùng thì có ta hay không? Đó mới quan trọng. Nếu có thì tu đến cuối cùng cũng như phàm phu, vậy tu làm chi? Còn nếu không thì cuối cùng như cây như đá, vậy tu để làm gì?

Do vậy, nếu học không kỹ, không tới nơi thì dễ lầm lạc, ở đây quý thầy chỉ gợi ý thôi chứ trong nhà Thiền mà nói có hay không là không được rồi. Nếu hoàn toàn vô ngãcuối cùng không còn gì hết thì cái gì rõ được vô ngã để chỉ dạy lại cho người khác? Bởi vậy, có hay không thì quý vị tự nghiệm là biết.

Có câu chuyệnTôn giả Nghiêm Dương đến hỏi Ngài Triệu Châu, “Khi con không còn vật gì để đem đến đây thì sao?”

Ngài Triệu Châu trả lời, “Vậy ông buông xuống đi!”

Ông thưa, “Con đã nói với Ngài là không có vật gì đem đến, vậy thì buông cái gì nữa?”

Ngài mới bảo, “Ông buông không được thì vác lên đi.”

Buông sạch hết, không còn gì để buông nữa thì lúc đó mới là chỗ sống của ông. Còn có cái gì để buông nữa thì không phải, vì có cái để buông thì còn có bóng dáng cái tôi, còn có hư vọng. Còn hư vọng thì buông được, còn chính mình thì làm sao buông, lấy gì để buông? Đó là chỉ cho những cái hư dối, những cái không thật, không phải mình mà chấp là mình. Cho nên, buông ở đây là buông cái tình chấp, cũng như phá là phá cái tình chấp, chứ không phải là có cái ngã để mình phá! Chính là mình thì làm sao mà phá, cho nên phá là phá cái tình chấp, cái mê lầm. Mà khi cái tình chấp, cái mê lầm hết thì đó mới chính là chỗ sống chân thật.

Cái này thì Phật ít nói đến vì nếu nói thì mình dễ hiểu lầm, chấp lầm cái đó với bản ngã, tức là chấp cái giả làm cái thật. Mà khi mình tự sạch hết những tình chấp thì mình biết liền, lúc đó không cần nói mình cũng biết. Còn bây giờ mà nói thì mình chỉ tưởng tượng khái niệm về nó.

Trong kinh, Phật thường dạy:

“Năm uẩn là vô ngãSắc không phải là ta, không phải là của ta. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Mắt không phải là ta, không phải là của ta. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng là như thế.”

Ngài nói năm uẩn không phải ta, không phải là của ta, nhưng Ngài vẫn nói Như Lai, vẫn nói Chánh giác. Cho nên, chỉ người có công phu tu hành thì thầm cảm nhận, chứ cứ lo giải thích theo chữ nghĩa thì nhiều khi hiểu lầm. Ví dụ như khi tình chấp sạch hết rồi mà Phật nói cái ngã ấy như thế này, như thế kia v.v. thì mình hiểu lầm nó là vật này, vật kia v.v. thì vô tình chấp ngã trở lại. Do vậy, đây cho thấy rằng mình không phải lo sợ khi buông xả hết, đến cuối cùng không còn gì hết, như cây như đá. Nếu lúc đó không còn gì hết thì làm sao Phật có thể thuyết pháp, có thể giảng kinh. Chư Tổ và các Thiền sư cũng như vậy, đó là lẽ thật.

Bản ngã là nguồn tội lỗi, là nguồn đi vào luân hồi sanh tử, chấp vào nó là vô minh, là mê lầm. Người tu Phật là đi trên con đường trí tuệ, trên con đường an vui giải thoát nên không thể đi theo vô minh được. Do vậy, mình phải nhận kỹ, phải giải trừ tình chấp ngã này chứ không cố bám chấp vào nó để đau khổ mãi.

Cuộc sống hiện tại của mình đây có ngăn cách nhau, không đến được với nhau là cũng vì cái ngã này. Bởi cái ngã đó ngăn cách nên mình mới không thông cảm nhau, còn nếu giảm bớt, nhẹ bớt cái ngã thì mình dễ đến với nhau. Do vậy, nhắc nhở đây để mình tu hành đúng theo chánh pháp, không có sai. Quý vị nắm vững cái này thì không ai gạt được mình hết.

Ai nói, “Tôi tu hay, tu giỏi v.v.. Tôi thế này, thế kia v.v..” thì kiểm lại xem cái ngã có giỏi, có cao không? Nếu tu cao mà cái ngã còn cao là không phải, như vậy thì mình biết nên không lầm theo. Mong rằng bài pháp này sẽ giúp cho mỗi người sống cởi mở với nhauđến gần nhau, thật hiểu nhau hơn và luôn sống vui nhẹ bản ngã.

(Trích từ bài pháp thoại “Giải Trừ Bản Ngã” của Hòa Thượng Thích Thông Phương được đăng trên trang Facebook “Thiền sư Thích Thanh Từ và những lời dạy.”)

Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác. Do vậy, Lục Tổ Huệ Năng dạy vị tăng Pháp Đạt, “Có ta tội liền sanh, không ta phước vô kể.”

Tức là vị tăng này chấp có “ta” tụng kinh, tụng được 3,000 bộ kinh Pháp Hoa nên lạy Tổ mà đầu không sát đất. Bởi vị này ở xa nghe tiếng Tổ chứ không kính lắm, chỉ lạy bất đắc dĩ nên Lục Tổ mới quở: Tụng kinh mà có “ta” thì chưa được, có “ta” tụng kinh, “ta” ngồi thiềncần phải xem chừng cái ta đó.

Như vậy, người tu đúng pháp thì phải tiêu mòn cái ngã. Mình chưa phải thánh, chưa phải Phật thì chưa hết nhưng phải từng bước, từng bước bào mòn. Ví dụ như mình mới tu thì tình chấp còn nặng, nhưng tu một năm, hai, ba năm thì nó phải vơi đi bớt chứ không phải nó còn y nguyên hoặc nặng hơn nữa thì nguy hiểm!

Có những trường hợp tu càng lâu thì nó càng to hơn nữa: Mới vô tu thì còn e dè, khiêm tốn, nhường nhịn người này người kia, nhưng khi nghĩ rằng “Tôi là người tu lâu” thì sao? Khi tụng kinh hay ngồi thiền mà sắp mình ngồi tuốt phía sau thì có vui không? Do vậy, mình phải hiểu, tu càng lâu thì tình chấp ngã phải càng bớt, càng nhẹ, như vậy mới đúng, chứ càng tu mà tình chấp càng thêm nữa thì không phải. Đó là lẽ thật. Anh tu lâu, chứng đạongộ đạo nhưng phải hỏi lại “Cái ngã anh sao rồi?” Nếu nói tu cao mà cái ngã của anh cũng cao nữa thì không phải rồi.

Đức Phật trong thời kỳ còn tu Bồ-tát hạnh thì Ngài hy sinh đầu, mắt, v.v.. Có kiếp thấy con hổ đói khổ nên Ngài đem thân của mình cho ăn. Nhưng nó đói quá không còn sức để ăn nữa nên Ngài chích máu cho nó liếm. Khi có sức rồi, nó mới đứng dậy ăn! Cho đến khi Ngài đã thành Phật, trên đường đi hóa đạo thì những người theo đạo Bà-la-môn quy y theo Ngài nhiều nên ông thầy Bà-la-môn của họ trước đây lấy làm giận tức.

Một hôm, trên đường Phật đi khất thực, ông cứ đi theo sau mắng chửi. Chửi một hồi mà Phật vẫn yên lặng đi, ông bèn chạy lại đằng trước chặn đường Phật và hỏi, “Cù-đàm! Ông thua tôi chưa?”

Phật thong thả nói bài kệ:

Kẻ hơn thì thêm oán,
Người thua ngủ chẳng yên.
Hơn thua hai đều xả,
Ấy được an ổn ngủ.

Người đời là vậy đó! Còn chấp ngã thì thấy cái gì cũng muốn hơn, mà hơn thì người kia oán mình, trái lại nghĩ mình thua thì tối ngủ cũng không được, phải tìm cách gì đó để mai mình hơn trở lại. Hơn hay thua đều bất an hết. Đó cũng là do có cái “tôi,” nên đây Phật nói hơn thua hai đều xả hết thì nằm duỗi hai chân ngủ an ổn. Như vậy, Phật cũng còn bị chửi huống chi mình, nhưng Ngài không có cái “tôi” nên ông Bà-la-môn chửi ai thôi chứ không phải chửi Ngài, do đó Ngài không khổ. Còn mình nghe chửi thì “Nó chửi tôi đó!” nên thành khổ! Nên biết, sở dĩ họ chửi là để chọc cho mình tức, nếu mình sân mà chửi lại thì đó là rơi vào bẫy. Còn bây giờ họ chửi nhưng mình nói: “À! Không có gì cả!” thì họ không làm gì được, là thoát bẫy. Phật dạy là như vậy, đó là để cho mình giải tỏa nhẹ dần đau khổ.

Thiền sư Đạo Nguyên có dạy, “Học đạo là học tự ngã, mà học tự ngã là buông bỏ tự ngã, và buông bỏ tự ngã là chứng các pháp.”

Học đạo là học như vậy: “Học đạo là học tự ngã, mà học tự ngã là buông bỏ tự ngã, mà buông bỏ tự ngã là chứng các pháp.” Tức là sống được với đạo, Ngài tổng kết thật đơn giản. Nhiều khi nghĩ mình học đạo là học cái này, cái kia v.v. cho nhiều mà không ngờ học nhiều hiểu nhiều thì thêm ngã nữa: “Tôi hiểu đạo nhiều!” Đó là nguy hiểm.

Như vậy, Thiền sư Đạo Nguyên tóm tắt rất đơn giản mà lại đầy đủ ý nghĩa. Đây không phải nói suông thôi mà Ngài còn thực hành trong đời sống của Ngài nữa. Lúc Ngài khoảng 48 tuổi đời, một hôm một vị đệ tử có chức vụ trong Thiền Viện của Ngài hãnh diện đến báo tin, “Có vị lãnh chúa trong vùng phát tâm cúng dường một miếng đất cho Thiền viện.” Nếu là người khác mà nghe vậy thì chắc mừng lắm, nhưng vừa nghe xong thì Ngài lột y ông tăng đang mặc đó và đuổi ra khỏi Thiền Viện! Không những vậy, Ngài Đạo Nguyên còn cho khoét cái sàn ngồi thiền chỗ ông tăng đó và đào sâu xuống đất.

Sau đó, Ngài bảo, “Dính mắc vào danh lợi còn xấu xa hơn phạm giới. Phạm những giới luật thì chỉ khổ trong chốc lát, còn dính mắc vào danh lợi là khổ cả ngàn đời!”

Người xưa nghiêm khắc như vậy! Đây là Ngài cảnh cáo, mà cũng là kinh nghiệm cho người tu và người học Phật. Người học Phật thì phải đi qua con đường vô ngã, phải bớt phải nhẹ dần. Có câu chuyện về ông Tô Đông Pha, một hôm ông cảm hứng làm bài kệ:

Khể thủ thiên trung thiên,
Hào quang chiếu đại thiên.
Bát phong xuy bất động,
Đoan tọa tử kim liên.

        Dịch:

Cúi đầu lễ Thế Tôn,
Hào quang chiếu ba ngàn.
Tám gió thổi chẳng động,
Ngồi thẳng trên đài sen.

Rồi ông sai người đi qua sông đem trình Thiền sư Phật Ấn. Ngài Phật Ấn bèn đề hai chữ: “Đánh rắm!” bảo đem về đưa cho ông. Khi ông mở ra đọc thì nổi nóng lên liền! Ông bèn lập tức lấy thuyền qua sông gặp Thiền sư Phật ẤnThiền sư Phật Ấn ra trước đón ông và bảo, “Tám gió thổi không động nhưng chỉ cần một cú “đánh rắm” đã thổi ông từ bên kia sông qua tới bên đây rồi!.” Rõ ràng, đó là cái “tôi” bị xúc phạm mà ra.

Do vậy, người học đạo phải thực hành, phải thực sống. Mỗi vị tự kiểm lại, năm nay mình tu học được một năm thì cái ngã có bớt chút nào không? Nếu không bớt thì năm tới phải ráng bớt, chứ không thể năm tới cũng giống như năm nay. Mà giải trừ chấp ngã cuối cùng là đưa đến vô ngã. Vậy tu đến cuối cùng thì có ta hay không? Đó mới quan trọng. Nếu có thì tu đến cuối cùng cũng như phàm phu, vậy tu làm chi? Còn nếu không thì cuối cùng như cây như đá, vậy tu để làm gì?

Do vậy, nếu học không kỹ, không tới nơi thì dễ lầm lạc, ở đây quý thầy chỉ gợi ý thôi chứ trong nhà Thiền mà nói có hay không là không được rồi. Nếu hoàn toàn vô ngãcuối cùng không còn gì hết thì cái gì rõ được vô ngã để chỉ dạy lại cho người khác? Bởi vậy, có hay không thì quý vị tự nghiệm là biết.

Có câu chuyệnTôn giả Nghiêm Dương đến hỏi Ngài Triệu Châu, “Khi con không còn vật gì để đem đến đây thì sao?”

Ngài Triệu Châu trả lời, “Vậy ông buông xuống đi!”

Ông thưa, “Con đã nói với Ngài là không có vật gì đem đến, vậy thì buông cái gì nữa?”

Ngài mới bảo, “Ông buông không được thì vác lên đi.”

Buông sạch hết, không còn gì để buông nữa thì lúc đó mới là chỗ sống của ông. Còn có cái gì để buông nữa thì không phải, vì có cái để buông thì còn có bóng dáng cái tôi, còn có hư vọng. Còn hư vọng thì buông được, còn chính mình thì làm sao buông, lấy gì để buông? Đó là chỉ cho những cái hư dối, những cái không thật, không phải mình mà chấp là mình. Cho nên, buông ở đây là buông cái tình chấp, cũng như phá là phá cái tình chấp, chứ không phải là có cái ngã để mình phá! Chính là mình thì làm sao mà phá, cho nên phá là phá cái tình chấp, cái mê lầm. Mà khi cái tình chấp, cái mê lầm hết thì đó mới chính là chỗ sống chân thật.

Cái này thì Phật ít nói đến vì nếu nói thì mình dễ hiểu lầm, chấp lầm cái đó với bản ngã, tức là chấp cái giả làm cái thật. Mà khi mình tự sạch hết những tình chấp thì mình biết liền, lúc đó không cần nói mình cũng biết. Còn bây giờ mà nói thì mình chỉ tưởng tượng khái niệm về nó.

Trong kinh, Phật thường dạy:

“Năm uẩn là vô ngãSắc không phải là ta, không phải là của ta. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Mắt không phải là ta, không phải là của ta. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng là như thế.”

Ngài nói năm uẩn không phải ta, không phải là của ta, nhưng Ngài vẫn nói Như Lai, vẫn nói Chánh giác. Cho nên, chỉ người có công phu tu hành thì thầm cảm nhận, chứ cứ lo giải thích theo chữ nghĩa thì nhiều khi hiểu lầm. Ví dụ như khi tình chấp sạch hết rồi mà Phật nói cái ngã ấy như thế này, như thế kia v.v. thì mình hiểu lầm nó là vật này, vật kia v.v. thì vô tình chấp ngã trở lại. Do vậy, đây cho thấy rằng mình không phải lo sợ khi buông xả hết, đến cuối cùng không còn gì hết, như cây như đá. Nếu lúc đó không còn gì hết thì làm sao Phật có thể thuyết pháp, có thể giảng kinh. Chư Tổ và các Thiền sư cũng như vậy, đó là lẽ thật.

Bản ngã là nguồn tội lỗi, là nguồn đi vào luân hồi sanh tử, chấp vào nó là vô minh, là mê lầm. Người tu Phật là đi trên con đường trí tuệ, trên con đường an vui giải thoát nên không thể đi theo vô minh được. Do vậy, mình phải nhận kỹ, phải giải trừ tình chấp ngã này chứ không cố bám chấp vào nó để đau khổ mãi.

Cuộc sống hiện tại của mình đây có ngăn cách nhau, không đến được với nhau là cũng vì cái ngã này. Bởi cái ngã đó ngăn cách nên mình mới không thông cảm nhau, còn nếu giảm bớt, nhẹ bớt cái ngã thì mình dễ đến với nhau. Do vậy, nhắc nhở đây để mình tu hành đúng theo chánh pháp, không có sai. Quý vị nắm vững cái này thì không ai gạt được mình hết.

Ai nói, “Tôi tu hay, tu giỏi v.v.. Tôi thế này, thế kia v.v..” thì kiểm lại xem cái ngã có giỏi, có cao không? Nếu tu cao mà cái ngã còn cao là không phải, như vậy thì mình biết nên không lầm theo. Mong rằng bài pháp này sẽ giúp cho mỗi người sống cởi mở với nhauđến gần nhau, thật hiểu nhau hơn và luôn sống vui nhẹ bản ngã.

(Trích từ bài pháp thoại “Giải Trừ Bản Ngã” của Hòa Thượng Thích Thông Phương được đăng trên trang Facebook “Thiền sư Thích Thanh Từ và những lời dạy.”)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1486)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 1932)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1762)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 1887)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1478)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2064)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1433)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1673)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1584)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1651)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1472)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2219)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 1911)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 1854)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1687)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2002)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1621)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1766)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 1976)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1512)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1757)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1728)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 1973)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1747)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1602)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1574)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1588)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1674)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 1956)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1543)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1504)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2027)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1783)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1590)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2132)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1781)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1856)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2053)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2321)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2351)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 1884)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2324)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1693)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1718)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2054)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2582)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1475)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1444)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1604)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1432)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant