Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luận Về Triết Lý “buông” Trong Nhà Phật

Thursday, November 17, 202209:13(View: 1005)
Luận Về Triết Lý “buông” Trong Nhà Phật
Luận Về Triết Lý “buông” Trong Nhà Phật 
 
Nguyễn Tiến Dũng

Luận Về Triết Lý “buông” Trong Nhà Phật


DẪN NHẬP

Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lực và trí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”. Buông là một thái độ của chủ thể trong ứng xử với ba ngọn lửa tham, sân, si. Đó cũng là cách ứng xử của Phật tử về vô minh và ái dục. Mỗi buông chỉ là một gián đoạn trong tiếp diễn bất tận của vô thường. “Đức Phật nói rằng khi ta giải thoát khỏi dục vọngràng buộc, khỏi bản ngã thì ta giải thoát khỏi xung khắc đau khổ ….Lúc đó, có trạng thái nhìn thấy chân lý, sự thực hành của chân lý, nghĩa là thấy sự vật đúng là nó” [1]. Buông làm cho cái tôi là cái tôi chính danh và đạt tới tự do trong vô ngã. Đó là một phần của giáo lý, là con đường để đi đến giải thoát [2]. Buông là cách thức đối diện với vô thường từ nhãn tuệ quang minh và sự ứng xử nhân sinhVì vậy, buông không dừng lại ở trực quan. Buông là buông của ý chí, là của cảm nhận bằng trực giác (intuition) [3] và ngộ (understand).

LÀM CHỦ TUỆ MỚI BIẾT BUÔNG

Nguyên nhân con người sa chân vào bể khổ là do con người dừng lại ở nhận thức trực quan, lấy cái thân vô ngã của mình làm chuẩn cứ trong tương tác với các hiện tượng nhân sinh và thế giới. Vì thế đã xuất hiện những kết luận thiếu tuệ. Trong khi đó theo Đức Phật, Tuệ là ngọn hải đăng dẫn đường soi lối. Đó sức mạnh nội sinh của cá nhân: “Người có trí tuệ tự tại sáng suốttránh khỏi hầm hố tội lỗitrí tuệ chân thật là chiếc thuyền kiên cố, đưa chúng sinh khỏi biển khổ sông mê, là liều thuốc chữa được muôn ngàn bệnh tật, là chiếc búa sắt đập tan rừng phiền não, là lưỡi dao bén cắt đứt lưới vô minh” [4]. Bởi thế Tuệ là phương cách để con người biết buông lục cănlục trần và thức. Nghĩa là vượt qua chi chít lưới giăng trực quan để thoát khỏi cõi mê.

Vô minh và ái dục là những ma lực đẩy con người ta vào bể khổ và luân hồi nghiệp báo. Chúng vừa là nguyên nhân và kết quả khi đối diện với vô thường. Nói cách khác, Vô minh và ái dục là kết quả của nhìn ngắm vô thường bằng con mắt chủ quan. Đó chính là gót chân Achilles của chủ thể nhận thức. Thấy rừng xanh tươi, trường tồn mà quên lửng rừng được liên kết từ những cây hiện thân theo vòng đua sinh, trụ, dị diệt và biến đổibiến đổi trong từng Ksana.

Vô minh và ái dục chỉ là dòng chảy trên mặt của con sông, còn nước chảy ở bề mặt sâu của dòng chảy mới làm nên tên của con sông. Nếu không nhận ra điều này thì không thể buông. Michael Jordan đã đứng trên lập trường này mà để lý giải về ánh sáng của tuệ ở Bát chánh đạo: “Chánh kiến và chánh tư duy được gom thành tuệ (prajna). Tuệ liên quan đến tri kiến về bản chất của tồn tại,về nhân sinh quan và việc định hướng cho hành động trong thế gian, vượt lên trên những triền phược hệ luỵ của thân phận con người bằng tri kiến đó. Tuệ làm cho chân tâm sáng tỏ, tuệ đại vô lậu được hiển hiệnphân biệt được tự tướng  của vạn phápchứng ngộ được giáo lý Tứ Diệu Đế, các giáo lý vô thườngvô ngã , nguyên lý duyên khởi… Chính kiến là tiền đề cho ta thoát khỏi vô minh và bắt đầu con đường đi tới chính tư duy nhằm thoát khỏi nhân duyên ái dục bằng cách vun trồng đạo hạnh vô ngãthiện chílòng từ bi, bác ái” [5].

Tuệ cho ta hiểu rằng buông không đơn thuần là một hành vi mà buông là một quá trình. Đó là kết quả của cuộc đấu tranh nội tâm với sự giằng co của phản tư. Buông bao giờ cũng là kết quả của ngộ. Do vậy, buông thường những phản ứng tức thì có tính trực giác. Bởi thế đứng trước một sự kiện  dục nhưng không phải ai cũng buông được. Buông là tổng hòa của danh, sắc và duyên. Do duyên mà ta mới đối diện với sự kiện đó. Và cũng do duyên mà ta khảm nhập hay chối bỏ sự kiện đó.

Điều đó cho thấy, tuệ chính là trí lực của cá nhân, là căn nguyên trực tiếp của buông. Không chỉ vậy, tuệ còn cho ta biết để buông được thì phải nhẫn (忍). Nhẫn là biết kìm chế, làm chủ được trước những cám dỗ. Nhẫn của nhà Phật vượt ra ngoài quan niệm thông thường. Nhẫn là một hệ tham chiếu trong hệ quy chiếu của tuệ. Nói cách khác nhẫn là tử số mà mẫu số là tuệ. Không ít trường hợp nhẫn đồng nhất với ý chí cá nhân, thậm chí tạo nên sức hùng cường của ý chí. Thiếu nhẫn, dẫn chủ thể lâm vào tình trạng tiền hậu bất nhất. Chẳng hạn, nhà triết học Đức Schopenhauer (1788-1860), người được giới triết học phương Tây chú ý bởi Thế giới là ý chí và biểu tượng [6]. Ở trong tác tác phẩm này, ông đã cho rằng dục vọng của con người là những vòng tròn đồng tâm và nó ngày càng mở rộng, không có điểm dừng. Ông tuyên truyền cho lối sống khổ hạnhchay tịnh, lên án dục vọng nhưng bản thân lại “thích ăn thịt, uống rượu vang và cũng mê phụ nữ” [7].

Theo François Jullien (1951), học giả Pháp, uyên thâm về Phật giáo và văn hóa phương Đông, ánh sáng của trí tuệ cho con người biết buông nhưng buông “không phải là cái nhạt trong cuộc sống”, “cái nhạt của tính cách”, “cái nhạt trong quan hệ xã hội”, “ lý tưởng của cuộc sống nhạt” [8] mà buông là một triết lý nhân sinh ở một tầm cao mới. Nhạt không hiểu theo nghĩa theo nghĩa màu sắc. Nhạt là sự lựa chọn của tuệ, của dòng ý thức để buông bớt âm thanh và cuồng nộ [9] trong cuộc sống nhưng vẫn giữ lại những gì có ý nghĩa cần thiết ở mức đủ cho hiện sinh. Như vậy, nhạt là tri túc [10], là không tô màu đậm cho những thứ phù vân. Bởi thế, nhạt ở đây là nhạt của lục căn nhưng lại là sự thanh cao của tuệ. Nhạt là đi trong đời mà không vương bụi đời và từng bước miễn nhiễm với tham, sân, si. Do vậy, buông không phải là sự chạy trốn mà buông là nhập cuộc ở tầm cao mới. Đó triết lý của tham gia nhưng không hiện diện, triết lý tánh không của nhà Phật [11].

Ngược dòng lịch sử, ngay từ cổ đại, triết gia Hy Lạp Antisthenes đã tuyên truyền cho lối sống Apathy (dửng dưng): “Uống nước lã hứng bằng tay, ngủ không cần giường, mùa đông lấy lá rừng làm chăn, mùa hè lấy sông hồ, cầm thú làm bạn” [12]. Đó hoàn toàn đối lập với buông của nhà Phật. Lối sống Apathy là lối sống quay lưng lại với văn minh, mang nặng tư tưởng yếm thế, xa lánh đời. Do vậy, không thể chỉ căn cứ vào câu từ để đưa ra những kết luận vội vàng, nặng chủ quan tính.

Nguyễn Trãi (1380-1442), anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá, nhà tư tưởng lớn của Việt Nam là một ví dụ điển hình cho sự gắn bó mật thiết đạo với đời. Trong Côn Sơn ca, ông đã viết: “Côn Sơn có khe, Tiếng nước chảy rì rầm. Ta lấy làm đàn cầm./Côn Sơn có đá, Mưa xối rêu xanh đậm, Ta lấy làm chiếu thảm./Trên núi có thông, Muôn dặm rờn rơn biếc một vùng, Ta tha hồ ngơi nghỉ ở trong./ Trong rừng có trúc, Nghìn mẫu in biếc lục, Ta tha hồ ca ngâm bên gốc./ Người sao còn chửa về đi! Nửa đời bụi bặm hoài lăn lóc, Muôn chung, chín đỉnh có làm gì? Nước lã, cơm rau miễn tri túc” [13].

Buông của Nguyễn Trãi đâu có lợt lạt với đời. Buông đó thể hiện bản lĩnh và có trách nhiệm với đời. Lịch sử Phật giáo Việt Nam là lịch sử của Phật giáo đồng hành cùng dân tộc. Đó cũng là lịch sử của buông thâm nhập vào đời sống. Buông nhà Phật không chỉ tạo nên dấu ấn trong văn hóa Phật giáo [14] mà còn chảy trong đời hợp thành dòng chảy nhân sinh Việt Nam.

Kết luận

Buông là một giá trị nhân sinh đặc biệt của nhà Phật. Đó là chỉ số năng lực trí tuệý chí cá nhân đối diện với sự thống trị của luật vô thường. Bởi thế, buông không chỉ là một cách sống chịu sự quy định của vô thường mà còn là dấu hiệu lướt qua vô thường của cá nhân thông qua sự thông tuệ của mình. Phật giáo từng chiếm giữ vị trí thượng phong trong các hình thái ý thức xã hội ở thời Lý-Trần. Phật giáo đã tạo ra vùng văn hoá và lối sống có sức bền đến tận ngày nay. Buông của nhà Phật là một khái niệm có tính hàn lâm viện cao nhưng khi đi vào đời sống lại trở thành thái độ sống của một bộ phận nhân dân với tấm lòng khoan dung và vì đại nghĩa

 

Chú thích và tài liệu tham khảo:

* PGS.TS Triết học Nguyễn Tiến Dũng – GVCC trường Đại học Khoa học Huế.

[1] Krishnamurti (2002), Dòng sông thanh tẩy, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr.213

[2] Buông là giải thoát (Thích Nhất Hạnh).

[3] The ability to understand something immediately, without the need for conscious reasoning.

[4] https://phatgiao.org.vn/tri-tue-trong-dao-phat-d32504.html

[5] Michael Jordan (2004), Minh triết Đông phương, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội, tr.103

[6] Nguyên văn tiếng Anh: The World as Will and Representation

[7] Nguồn: https://cand.com.vn/Nhan-vat/Triet-gia-vi-dai-Duc-Arthur-Schopenhauer-Su-mau-thuan-cua-kiep-nhan-sinh-i313997/, truy cập ngày 29/7/2022.

[8] François Jullien (2004), Minh triết phương đông & triết học phương Tây, Nxb. Đà Nẵng, tr.39.

[9]  Lấy ý The Sound and the Fury (Âm thanh và cuồng nộ) của The Sound and the Fury) William Faulkner (1897-1962).

[10] Là giảm bớt sự ham muốn và biết đủ. Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc (Biết đủ là đủ, đợi cho đủ thì bao giờ mới đủ). Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn (biết nhàn là nhàn, đợi cho nhàn thì bao giờ mới nhàn).

[11] Xem Tuệ sỹ (1970), Triết học về tánh không, Nxb. An Tiêm, Sài Gòn.

[12] Nguyễn Tiến Dũng (2015), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.93.

[13] Viện sử học (2020), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

[14] Xem Uỷ ban Khoa học xã hội – Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý-Trần, Nxb. Khoa học, Hà Nội.

(Trích từ Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 399)
Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
)
(View: 329)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(View: 372)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(View: 346)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(View: 351)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(View: 378)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(View: 412)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(View: 363)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(View: 410)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(View: 420)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(View: 730)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(View: 327)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(View: 459)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(View: 408)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(View: 298)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(View: 509)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(View: 394)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(View: 536)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(View: 464)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(View: 524)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(View: 487)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(View: 581)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(View: 662)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(View: 619)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(View: 481)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(View: 594)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(View: 522)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(View: 578)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(View: 574)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(View: 601)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(View: 552)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(View: 608)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(View: 733)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(View: 685)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(View: 861)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(View: 643)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(View: 604)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(View: 574)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(View: 790)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(View: 703)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(View: 597)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(View: 588)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(View: 744)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(View: 551)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(View: 705)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(View: 523)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(View: 589)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(View: 487)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(View: 815)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(View: 677)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(View: 615)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM