Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Và Sự Bình Đẳng Giới

18 Tháng Mười Một 202209:21(Xem: 2521)
Phật Giáo Và Sự Bình Đẳng Giới

Phật Giáo Và Sự Bình Đẳng Giới

Thích Trung Định

 Phật Giáo Và Sự Bình Đẳng Giới



Bình đẳng
 giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hội và dân chủ trong thời hiện đạiTuy nhiên tình trạng của phụ nữ còn nhiều bất cập, đa dạng và phức tạp. Trên toàn thế giới, còn có nhiều nơi sự kỳ thị giới tính vẫn đang là vấn đề nghiêm trọng chưa thể giải quyết một sớm một chiều. Một số vùng miền địa dư và tôn giáo còn có những luật lệ khắt khe đối với phụ nữ. Do vậy tiếng nói chân chính về bình đẳng giới cần phải lên tiếngvai trò của nữ giới cần được tôn trọng, làm cho một nửa thế giới có cuộc sống an vui và hạnh phúc và hưởng quyền lợi bình đẳng.

 Nền văn minh và sự tiến bộ của loại người đang tiến đến một sự dung hòa và bình đẳng. Quyền con người ngày càng được nâng caođời sống an sinh xã hội ngày càng được chú trọng thì quyền bình đẳng giới lại càng đề cao hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, trong xã hội loài người vẫn còn đó nhiều khuất tất, tiếng nói chân chính về quyền bình đẳng vẫn chưa hoặc không thể đến bởi còn nhiều rào cản, luật lệ và phong tục tập quán. Trong các vấn đề trên thì sự bình đẳng giới trong các tôn giáo đang còn nghiêm trọng, vì niềm tingiáo điều đã tạo nên rào cản lớn khó có thể giải quyết ngay được.

 Trong lịch sử của các tôn giáo, tiếng nói của phụ nữ hiếm khi được nghe thấy. Điều này xảy ra do tính gia trưởng của người đàn ông trong các xã hội trong đó các tôn giáo đã xuất hiện và cuối cùng đã kìm hãm sự thay đổi địa vị của phụ nữ. Các tôn giáo trên thế giới đều đồng ý về sự tôn trọng phụ nữ và vai trò quan trọng của họ trong cuộc sống gia đìnhđặc biệt là nhấn mạnh vào phụ nữ là mẹ và vợ. Tuy nhiên, dường như không phải tất cả đều ủng hộ hay trao quyền theo nghĩa đó. Chúng ta có thể nói một cách tự tin rằng trong nhiều tôn giáo, sự bất bình đẳng giới đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Phật giáo không giống như các tôn giáo khác. Vai trò và quyền hạn của phụ nữ được quan tâm một cách thích đáng. Khi chúng ta tìm hiểu lời dạy của Đức Phật về vấn đề bình đẳng giới mới thấy sự quan tâm rất lớn của Ngài đối với phụ nữ. Trong kinh tạng Nguyên Thủy cũng như Đại Thừa đều có đề cập đến vai trò của phụ nữĐặc biệt trong kinh tạng Pali vai trò làm mẹ, làm vợ được đề cập khá nhiều và cụ thểĐức Phật thừa nhận phụ nữ cũng có thể tu hành và đạt được thánh quả như nam giới.

Việc thành lập Ni đoàn tại Vashali, một quốc gia dân chủ cộng hòa thời Đức Phật đã nói lên quyền bình đẳng giới trong Phật giáo như thế nào. Đây được xem là cuộc cách mạng lớn và đầu tiên trong lịch sử loài người. Chưa từng thấy một tôn giáo nào đánh giá vai trò của phụ nữ như Phật giáo. Có thể nói rằng, cuộc cách mạng này đã mở ra cơ hội tiến thân của nữ giới trên con đường thực tập tâm linh cũng như các mối quan hệ khác trong xã hộiĐặc biệt cuộc cách mạng này diễn ra tại Ấn Độ, một đất nước chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng Vệ đàvai trò của phụ nữ Ấn Độ thời bấy giờ rất thấp; thậm chí là không có một chút trọng lượng nào so với nam giới. Một số tôn giáo cho rằng, phụ nữ là nạn nhân của ái dục nên ra đường phải bịt mặt. Nho giáo cho rằng, nữ nhi ngoại tộc hay nhất nam viết hữu thập nữ viết vô. Chính những quan điểm kỳ thị này đã đẩy phụ nữ vào sự bế tắc, mất quyền con người đúng nghĩa.

Bằng chứng giáo lý

Cốt lõi của giáo lý Phật giáo là không có phân biệt kỳ thị giới tính và điều này vẫn nhất quán xuyên suốt trong lịch sử 2.600 năm qua. Một trong những giáo lý trung tâm của Phật giáo đó là học thuyết vô ngãGiáo lý này chỉ ra rằng mọi sự vật đều do duyên sinh, không có một thực thể cố định tồn tại độc lập bất biến. Do vậy, bản chất của con người là vô ngã thì không có sự phân biệt giới tính. Thứ hai, trong giáo lý Phật giáo, cả nam và nữ đều có khả năng đạt được Niết bàn mục tiêu cao nhất của Phật giáo. Trong Tương Ưng Bộ KinhĐức Phật tuyên bố“Tất cả mọi người dù nam hay nữ đều có thể tu tập trong giáo lý này và đạt được Niết bàn an lạc như nhau”.[1] Nghĩa là giáo lý của Đức Phật được mở ra cho tất cả mọi người đều có thể đạt được Niết bàn, nếu người đó thực hành đúng chánh phápphụ nữ cũng không ngoại lệ. Nhưng đôi khi Đức Phật cũng nhắc nhở cho phái nữ về đặc tính của mình. Trong Tăng Chi Bộ Kinh Đức Phật dạy rằng: “Phụ nữ không kiểm soát nổi cảm xúc, ghen tị, tham lam và yếu đuối trong sự thực hành thiền định và trí tuệ.”[2] Bởi vì Ngài muốn chứng tỏ rằng tình yêu và quan hệ tình dục là mối nguy hiểm cho việc thành tựu đạo quả.

Lời dạy trên của Đức Phật liên quan đến khả năng, tiềm năng giác ngộ của họ đã được Bộ pháp tụ (Dhammasaṅginī) mô tả như là một cuộc cách mạng thực sự trong nền văn hóa Ấn giáo gia trưởng thời bấy giờ. Tuy nhiên, một số bản kinh trong giai đoạn sơ kỳ nêu lên một vài hạn chế và khiếm khuyết của phụ nữ. Đã sinh ra làm người nữ là có năm chướng ngại không thể vượt qua được. Đó là: Người nữ không thể làm Phạm Thiên, không thể làm Đế Thích, không thể làm Ma Vương, không thể làm Chuyển Luân Thánh Vương, và không thể làm Phật.[3.]

Bằng chứng thứ ba ủng hộ sự bình đẳng của phụ nữ trong Phật giáo liên quan đến khái niệm nghiệp - đó là hành động tốt để tái sinh hạnh phúc, trong khi hành động xấu dẫn đến bất hạnh. Trong lý thuyết Phật giáo, ở mức độ là hành động hiện tại và không phải giới tính quyết định chất lượng cuộc sống trong tương lai, đàn ông và phụ nữ có thể được coi là ngang bằng với quy luật của nghiệp.

Đại diện phụ nữ trong văn học Phật giáo

Chân dung tích cực của các nữ tu trong văn học Phật giáo thời kỳ đầu bao gồmphụ nữ A la hán trong những câu chuyện được trích dẫn trong Trưởng lão Ni kệ được mô tả là người phụ nữ có thể đạt được trí tuệ và thành tựu thiền định. Mẹ của Đức Phật là Hoàng hậu Maya - người được mô tả là một phụ nữ gương mẫuđức hạnh và mẹ kế của Đức Phật Prajapati, người được mô tả là sùng đạo và thành tựu tâm linh trong Phật giáo khi trở thành nữ tu đầu tiên.

Văn học Mahāyāna và Vajrayāna được nhìn nhận thống nhất là không có vấn đề về sự khác biệt. Có một số hình ảnh phụ nữ tính tích cực trong văn học Đại thừabao gồm trí tuệ Ba la mật (Prajñāpāramitā), sự nhân cách hóa của sự tôn vinh trí tuệ hoàn hảo. Trong khi ở Vajrayāna, ngôn ngữ rất ưu tiên về sự thể hiện quan điểm nữ tính. Trong Thắng Man kinh, cho chúng ta thấy phụ nữ thành tựu trí tuệ và thực hành con đường Bồ tát đạo một cách xuất sắc. Kinh Thắng Man là một điểm sáng lớn đề cao đến vai trò của người Phụ nữ theo quan điểm của Phật giáo Đại ThừaCâu chuyện Long Nữ thành Phật trong kinh Pháp Hoa cho thấy sự bình đẳng trên con đường thực tập tâm linh là hoàn toàn có thể. Qua đó, chúng ta khẳng định được rằng, Phật giáo thực sự bình đẳng giới, và minh định rỏ trong các lời dạy của Đức Phật.

Trong văn học Pali, giáo lý chính của Đức Phật cho phụ nữ là một phương pháp giáo dục. Trong một số bài kinh chỉ ra rằng Đức Phật khuyên vua Pasenadi, không nên quá đau buồn rằng nữ hoàng Mallika, đã sinh ra một cô con gái. Ngài nhấn mạnh một đứa con gái có thể chứng minh thậm chí còn cao quý hơn cả một đứa con trai. Đức Phật cũng dạy con dâu Anathapindika về bảy loại vợ. Trong bài kinh SigalovadaĐức Phật đã đặt ra năm bổn phận của một người vợ đối với chồng mình.

Trong văn học Phật giáo ghi lại một số phụ nữ, những người đã tu học theo giáo lý của Đức Phật, đã đạt được mục tiêu này. Một số phụ nữ xuất gia trong hàng ngủ đệ tử Phật đã đạt đến quả vị A la hán. Bên Tăng có Thập đại đệ tử thì bên Ni cũng có Thập đại đệ tử xuất sắc tương tợ.

Sự thực hành trong Phật giáo

Có lẽ bằng chứng mạnh mẽ nhất cho sự chênh lệch giữa các giới tính từ một cuộc kiểm tra đời sống thể chế trong Phật giáobao gồm cả vấn đề xuất gia của các nữ tu. Phật giáo được ghi nhận là một trong những tôn giáo đầu tiên có một cơ quan có tổ chức của Ni đoàn. Trong một số bản kinh kể rằng, mẹ kế của Đức Phật, bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề dẫn đầu 500 phụ nữ khác trong hoàng triều Sakya đã đi bộ gần 200 km để đến Vaisaly để xin Đức Phật cho phép xuất giaBan đầu Đức Phật không cho, sau khi có sự can thiệp của Tôn giả A Nan Đức Phật mới chấp nhậnCâu chuyện ghi lại rằng, khi năm trăm phụ nữ trong hoàng tộc thành Ca Tỳ La Vệ đến xin Phật xuất gia. Đoạn đường đi bộ gần 200km làm cho bàn chân rớm máu. Thấy cảnh như vậy, Tôn giả A Nan xót thương bèn tìm lời thỉnh cầu Phật cho phép phụ nữ xuất gia.

Tôn giả lại bạch:

- Bạch Thế Tôn! Người phụ nữ, nếu đã từ bỏ đời sống gia đình để sống đời sống không nhà cửa, tinh cần tu tập theo giáo pháp và giới luật, có khả năng chứng ngộ được các thánh quả Tu đà hoàn, Từ đà hàm, A na hàm, hay A la hán không?

Đức Phật dạy:

- Này A Nan! Người nữ xuất gia cũng có khả năng chứng ngộ các thánh quả.

Được khích lệ bởi lời dạy ấy, Tôn giả đã đem hết lí lẽ, trọn tình, trọn lí, khẩn thiết trình bày lên Phật, cố xin giùm cho thái hậu và phái nữ được xuất giaNhận thấy đã đến lúc thích hợpĐức Phật bảo cho tôn giả A Nan biết, nếu thái hậu và đoàn người theo bà chấp nhận thi hành trọn vẹn Bát kỉnh pháp họ sẽ được phép xuất gia làm Tỳ kheo ni.

Tôn giả rất hoan hỉ, liền ra ngoài thông báo lời dạy của Phật cho thái hậu và các bà được biết. Thái hậu và tất cả mọi người đều vui mừng chấp nhận tuân hành Bát kỉnh pháp. Thế là ngay sau đó, thái hậu Kiều Đàm Di và đoàn người của bà được thọ đại giớitrở thành các vị Tỳ kheo ni đầu tiên của giáo đoàn Phật. Với sự kiện này, đức Phật được coi là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thành lập một đoàn thể xuất gia cho nữ giới với đầy đủ giới luật.[4]

Mặc dù thừa nhận cho phụ nữ xuất gia và thành lập Ni đoàn nhưng đối với người nữ vấn có những dị biệt và khiếm khuyết. Do đó đối với giới luật của Tỷ kheo ni nhiều hơn sơ với Tỷ kheoTỷ kheo ni có thể ít được sự cúng dường hơn Tỷ kheo, và tầm ảnh hưởng trong quần chúng cũng không thể sánh bằng Nam tu sĩ. Đó là điều tất nhiên, bởi thể trạng và tâm tánh của phụ nữ là như vậy.

Ngày nay, nhiều phụ nữ trở thành nhà lãnh đạo kiệt xuất, nhà nghiên cứu, khoa học, kinh tế là đã làm thay đổi diện mạo xã hội, từ đó khẳng định vai trò và quyền lợi của phụ nữ như tinh thần của lời Phật dạy trong kinh điển ghi lại.

Tóm lạichúng ta có thể nói rằng, Đức Phật có một thái độ rất tích cực và cách mạng đối với người phụ nữ. Ngài đã mở cánh cửa bất tử vì lợi ích ngang nhau của cả nam và nữ. Thực tế này được coi là một sự kiện quan trọng trong lịch sử của tôn giáo thế giới. Sự thành tựu tâm linh của nhiều nữ A-la-hán đã chứng minh lời tuyên bố linh thiêng của Đức Phật rằng giá trị của một người không phụ thuộc vào giới tính và nền tảng gia đình của họ, mà dựa vào là trí tuệ và đức hạnh của người đó.

Ghi chú:

[1] In Samyutta Nikaya, the Buddha states that : “Whoever has such a vehicle, whether a man or woman shall indeed by means of that vihecle, come to Nibbana”.  Xem Tài liệu học tập Thạc sĩ Phật họcĐại học Delhi.

[2] In Anguttara Nikaya runs that : “Womenfolk are uncontrolled, envious, greedy and weak in wisdom”. Xem Tài liệu học tập Thạc sĩ Phật họcĐại học Delhi.

[3]Năm chướng ngại của người Nữ, xem https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat-hoc-online/nu-tu-ngu-chuong-k39346.html

 [4] Hạnh Cơ, Ni Trưởng Ma Ha Ba Xà Ba Đề, https://thuvienhoasen.org/a28194/ni-truong-ma-ha-ba-xa-ba-de.

Thích Trung Định

Báo Giác Ngộ, số 1174

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1546)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1403)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1820)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1576)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1350)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1638)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2161)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1905)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1264)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1444)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1440)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1730)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1484)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1349)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1493)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1434)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1759)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1458)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1416)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1432)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1503)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1691)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1590)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1531)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1408)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1496)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1214)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1971)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1388)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1541)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2907)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1547)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1736)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1588)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2036)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1577)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1777)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1977)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2172)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1641)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2612)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1706)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1888)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1849)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1614)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2355)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1792)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1852)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1720)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2092)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant