Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phương Pháp Định Hướng Tư Tưởng Trong Lời Dạy Của Đức Phật

25 Tháng Mười Một 202211:01(Xem: 1992)
Phương Pháp Định Hướng Tư Tưởng Trong Lời Dạy Của Đức Phật
Phương Pháp Định Hướng Tư Tưởng Trong Lời Dạy Của Đức Phật

Thích Trung Định

Lời Dạy Của Đức Phật


Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con ngườiTư tưởng không những chi phối hành vi và lời nói mà còn ảnh hưởng đến nếp sống, phong thái, văn hóa, của con người trong đời sống hằng ngày. Mỗi tôn giáo, hay một triết thuyết nào cũng đều có một hệ thống tư tưởng chủ đạo. Dựa trên nền tảng tư tưởng chủ đạo này họ bắt đầu triển khai công việc xoay quanh trục tư tưởng đó. Trong một thể chế, tư tưởng làm ổn định lòng người, tạo sức mạnh niềm tin và củng cố khối đại đoàn kết.

Có hai loại tư tưởng chủ đạo, đó là thiện và bất thiệnTư tưởng thiện là tia sáng đầu nguồn dẫn đường đưa chúng ta đi đến mục tiêu cao đẹp tận cùng. Ngược lại, tư tưởng bất thiện nhấn chìm chúng ta đi vào bóng tối của khổ đau và đọa lạc. Việc định hướng tư tưởng giúp ích con người mở ra hướng đi mới, vươn tới tương lai tươi sáng, huy hoàng.

Theo Mahatma Gandhi: ‘Có hai loại tư tưởng khác nhau, đó là: Loại hình thành từ cái đầu và loại xuất phát từ trái tim.’ Loại tư tưởng hình thành từ cái đầu hàm chứa những nội dung xuất phát từ lý trí; và loại tư tưởng xuất phát từ trái tim hàm chứa nội dung xuất phát từ tình thươngLời nói này khá tương đồng với tư tưởng cốt lõi của đạo Phật đó là từ bi và trí tuệTrí tuệ là sự hiểu biết và từ bi là tình thương yêu. Hiểu và thương luôn bổ sung cho nhau để hoàn thiện một nhân cách viên mãn. Nếu thiếu một trong hai khía cạnh thì vấn đề sẽ trở nên khập khiễng, không vững bền và dễ đổ gãy. Tư tưởng chủ đạo của Phật giáo là dạy con người hướng thiện, có tri thức để xây dựng cuộc sống tốt đẹp, yên vui trong hiện tạiThực hành lối sống đạo đức chính là cốt lõi và điểm chính yếu của đạo Phật.[1]

Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình. Có thể nói, đức Phật là nhà tư tưởng vĩ đại của nhân loạiNgay sau khi thành đạo, ngài đã đi khắp mọi miền của đất nước Ấn Độ cổ đại để truyền bá tư tưởng từ bigiác ngộ và giải thoát cho mọi ngườiSự kiện ấy đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại của dòng chuyển biến về quan niệm nhân sinh và thế giới, là cuộc cách mạng hoàn toàn về nhận thứctư duy cũng như hành động của con người. Lời dạy của đức Phật đã thổi một cơn gió mát mẻ vào thành trì kiên cố của tư tưởng Vệ đà. Đã rọi tia nắng ấm áp cho màn đêm tâm thức của con người. Bình minh tiếp tục rạng soi trên khung trời triết học phương Đông và toàn thể nhân loại.[2]

Trong suốt bốn mươi lăm năm thuyết pháp độ sinhđức Phật luôn định hướng cho con người hai vấn đề cốt lõi đó là khổ đau và con đường đưa đến đoạn diệt khổ đau. Hàm chứa trong tất cả lời dạy của đức Phật đều định hướng tư tưởng cho người nghe một cách rõ ràng. Trong kinh Nên Hành Trì, Không Nên Hành Trì (Sevibba-asevibbasutta) thuộc Trung bộ kinhđức Phật đã đề cập đến sự phát sinh tư tưởng của hai loại, một là nên hành trì và không nên hành trìBình luận về tuyên bố này, Tôn giả Xá-lợi-phất giải thích thêm rằng, con người nên tuân theo loại tư tưởng nào phát sinh không liên quan đến sự tham muốnác tâm, làm hại, và ngược lại. Nói cách khác, để áp dụng vào thực tiễn cuộc sống, hành giả nên phát triển tư tưởng không tham muốn, không ác tâm, không gây hại và nên dừng những suy nghĩ liên quan đến tham muốnác độc, làm hại.[3]

Trong hai câu mở đầu của Kinh Pháp Cúđức Phật đã dạy: “1. Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo; Nếu với ý ô nhiễm, Nói lên hay hành động, Khổ não bước theo sau, Như xe, chân vật kéo. 2. Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo; Nếu với ý thanh tịnh, Nói lên hay hành động, An lạc bước theo sau, Như bóng, không rời hình.” Lời dạy này chỉ ra rõ ràng rằng, bất kỳ kết quả nào mà một người đang nhận được, dù là tốt hay xấu, đều bắt nguồn từ suy nghĩ của họ. Từ quan điểm này, đức Phật xem việc định hướng tư tưởng là hoàn toàn cần thiết cho hoạt động của con người.

Trong kinh Đoạn Giảm (Sallekhasutta) thuộc Trung bộđức Phật đã chỉ dạy Tỷ kheo Cunda về các loại tư tưởng nào nên phát triển và tư tưởng nào nên loại bỏ. Trong bản kinh này có 44 đối tượng được liệt kê để thực hànhcụ thể là:
(1) Làm hại, không làm hại.
(2) sát sanhtừ bỏ sát sanh,
(3) lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho.
(4) không phạm hạnh, sống phạm hạnh,
(5) nói láo, từ bỏ nói láo,
(6) nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi,
(7) nói lời độc áctừ bỏ nói lời độc ác,
(8) nói lời phù phiếmtừ bỏ nói lời phù phiếm,
(9) tham dục, không tham dục,
(10) sân tâm, không có sân tâm,
(11) tà kiếnchánh kiến,
(12) tà tư duychánh tư duy,
(13) tà ngữchánh ngữ,
(14) tà nghiệpchánh nghiệp,
(15) tà mạngchánh mạng,
(16) tà tinh tấnchánh tinh tấn,
(17) tà niệm,  chánh niệm,
(18) tà địnhchánh định,
(19) tà tríchánh trí,
(20) tà giải thoát, chánh giải thoát,
(21) hôn trầm thụy miên, không có hôn trầm thụy miên,
(22) trạo hối,  không có trạo hối,
(23) nghi hoặctrừ diệt nghi hoặc,
(24) phẫn nộ, không có phẫn nộ,
(25) oán hận, không có oán hận,
(26) hư ngụy, không hư ngụy,
(27) não hại, không não hại,
(28) tật đố, không tật đố,
29) xan tham, không xan tham,
30) man trá, không man trá,
(31) khi cuống, không khi cuống,
(32) ngoan cố,  không ngoan cố,
(33) cấp tháo, không cấp tháo,
(34)  khó nói (nan thuyết), dễ nói,
(35) ác hữuthiện hữu,
(36) phóng dật, không phóng dật,
(37) bất tíntín tâm,
(38) không xấu hổ, có xấu hổ,
(39) không sợ hãi, có sợ hãi,
(40) nghe ít, nghe nhiều,
(41) biếng nhác, siêng năng,
(42) thất niệman trú niệm,
(43) liệt tuệ, thành tựu tuệ,
(44) nhiễm thế tụccố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.[4]

Bốn mươi bốn phạm trù tư tưởng được đức Phật liệt kê ở trên nhằm định hướng cụ thể cho hành giả áp dụng thực hành. Một người bắt đầu thực hiện bài thực tập này bằng cách đưa ra quyết định trong tâm trí của mình là không chấp nhận những gì sai trái, có hại, mà tuân theo những gì đúng đắn và hữu ích. Theo đức Phật, khi một người suy nghĩ và phản ánh nhiều về bất cứ điều gì trong tâm trí của mình, thì kết quả của hành động ​​theo cách đó. Trong thực tế khi tư tưởng hướng theo chiều hướng tốt, đúng đắn, thì mọi hoạt động của con người sẽ được thực hiện một cách đúng đắn và kết quả là hạnh phúc và bình yên sẽ đến. Đó là lý do tại sao đức Phật đã tuyên bố trong Tương ưng bộ kinh rằng: “Nếu tâm trí của một người được hướng dẫn, điều phục tốt, nó sẽ đoạn trừ được vô minhđạt đến trí tuệ và thành tựu Niết bàn.”[5]

Heidegger một triết gia người Đức, chuyên tìm hiểu về ý nghĩa của khái niệm tồn tại và cấu trúc bản thể của tồn tại con người, ông nhận chân được giá trị của tư tưởng thiền định trong Phật giáo có thể cứu vãn được các vấn đề của thời cuộc. “Trước sự sụp đổ của con người và thời đại, Heidegger kêu gọi chúng ta hãy trở về với tư tưởng thiền định (Meditation) và từ bỏ tư tưởng tính toán của tổ chức, kinh doanh, kỹ thuật, kỹ nghệ, cơ khí, chính trị, xã hộithần học, khoa học. Heidegger đã bước đi về trên con đường Phật giáo và chính Heidegger cũng không ngờ được. Đối với Heidegger, con người chỉ có thể tự giải thoát khi trở về thiền tưởng qua tư thái song hành: tâm hồn thản nhiên trước sự vật và tâm trí mở ra trước huyền diệu bí mật.”[6]

Ngày này, trong thời đại văn minh công nghệ hiện đại, thông tin đa chiều và nhiễu loạn, thì việc định hướng tư tưởng là vô cùng cần thiết. Thầy định hướng tư tưởng cho học trò, cha mẹ định hướng tư tưởng cho con cái. Nếu áp dụng sớm thì sẻ giúp ích cho học trò và con cái có được hướng đi vào đời vững vàng và sẻ gặt hái được thành côngNếu không giới trẻ sẻ hoang mang vô định dẫn đến những sai lầm không đáng có.

Tóm lạiphương pháp định hướng tư tưởng trong lời dạy của đức Phật là vô cùng thiết thực và ý nghĩa. Thông qua phương pháp này, hành giả dễ dàng tiếp nhận và thực hành theo. Tư tưởng Phật giáo có mặt trên hai ngàn năm qua đã giúp nhân loại vượt qua bao cơn khủng hoảng, chiến tranh và hận thùPhật giáo cung cấp cho loài người một con đường để tự mình hoàn thiện bản thânthiết lập một nền tảng giá trị đạo đức chân chính, mở ra cánh cửa an lạc và giải thoát cho con người.

Ghi chú:
[1] Khuông Việt, Tạp chí nghiên cứu và phổ biến tri thức Phật học, https://khuongviet.com.vn/giao-duc/huong-thien-xay-dung-cuoc-song-tot-dep-la-tu-tuong-chu-dao-cua-phat-giao-12738/31/
[2] Thích Trung Định, Như một dòng sông, Nxb. Thuận Hóa, 2010, tr.77-87.
[3] Thích Minh Châu, dịch, Trung bộ kinh, Kinh 114. Kinh Nên hành trì, không nên hành trì (Sevitabba-asevitabba sutta) https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung114.htm.
[4] Thích Minh Châu, dịch, Trung Bộ kinhKinh Đoạn giảm (Sallekha sutta), https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung08.htm.
[5] F. L. Woodward, The Book of the Gradual Sayings, Vol.I, p.6.
[6] Trích, Tạp chí tư tưởng Đại học Vạn Hạnh, số 1, năm 1967, tr.v
Báo Giác Ngộ, số 1176
 
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 923)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1244)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 712)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 685)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 756)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 765)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 747)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 738)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 891)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 773)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 933)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 936)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 864)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 870)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 809)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 955)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 890)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 832)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 920)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 841)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 796)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 894)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 828)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1079)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 857)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 946)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1092)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1566)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1102)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1173)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1049)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 916)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 861)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 895)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 751)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1428)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1302)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1267)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1210)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1327)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1272)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1406)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1284)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1154)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1202)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1256)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1237)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1359)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1254)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant