Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Các Yếu Tố Tạo Nên Sự Sống Và Chấm Dứt Sự Sống Của Một Chúng Sanh Theo Kinh Đại Duyên (mahānidāna Sutta)

03 Tháng Mười Hai 202208:27(Xem: 1623)
Các Yếu Tố Tạo Nên Sự Sống Và Chấm Dứt Sự Sống Của Một Chúng Sanh Theo Kinh Đại Duyên (mahānidāna Sutta)

Các Yếu Tố Tạo Nên Sự Sống Và Chấm Dứt Sự Sống
Của Một Chúng Sanh Theo Kinh Đại Duyên  (mahānidāna Sutta)

Thích Tịnh Đạo

Kinh Pháp Hoa Yếu Lược



DẪN NHẬP

Ấn Độ vốn là xứ sở coi trọng các yếu tố tinh thần và con đường tâm linh. Họ tìm tòi nghiên cứu vị trí của con người trong vũ trụ và cách để vượt qua hoặc thuần phục một cách yên bình trước số phận con người. Khi Đức Phật xuất thế, Ngài tìm cầu giải thoát và chỉ dạy giáo pháp của sự giải thoátGiáo lý Duyên khởi được tuyên thuyết thay thế cho thuyết sáng tạo của Phạm Thiên, đưa con người từ thế bị động trở thành thế chủ động trong việc tạo dựng hạnh phúc của chính mình. Vì vậy, thuyết Duyên khởi chính là đặc trưng của Phật giáo đối với xã hội

Từ nguyên lý Duyên khởi của vạn pháp mà Đức Phật thuyết giảng nguyên do hình thành mọi thứ trên thế gian. Từ nền tảng đó, Phật thuyết 12 nhân duyên, nói về sự hình thành một chúng sanh hữu tình và nguyên nhân dẫn đến khổ đau. Kinh Tương Ưng Nhân Duyên (Tương Ưng Bộ Kinh II; Tập 12, 16, Đại 2, 85a), Kinh Phật Tự Thuyết (Udàna – Tiểu Bộ Kinh I, Bản dịch của HT. Minh Châu 1982), Kinh Đại Bổn (Trường Bộ Kinh III) và Kinh Đại Duyên (Trường Bộ Kinh III) là các bộ kinh bàn rõ về giáo lý Duyên khởi. Bên cạnh những bài kinh Phật thuyết giảng đầy đủ 12 nhân duyên, cũng có những bài kinh chỉ đề cập một số chi pháp phù hợp với đối tượng nghe giảng và vấn đề thuyết giảngKinh Đại Duyên thuộc Kinh Trường Bộ số 15 là một bài kinh như thế. 

KINH ĐẠI DUYÊN

Vị trí và duyên khởi bản kinh

Kinh Đại Duyên (Mahànidàna sutta) là kinh số 15 thuộc Kinh Trường Bộ (Dīgha Nikāya) tương đương với Kinh Đại Duyên Phương Tiện trong Kinh Trường A-hàm. Đây là một bản kinh quan trọng đặc trưng cho tư tưởng Phật giáoĐức Phật đã thuyết bài pháp này cho đại đức Ananda tại bộ lạc Kuru, có tên là Kammàssadhamma. Nhân duyên Phật thuyết Kinh, ngài Ananda đi đến và trình bày trước Phật rằng đối với Ngài Ananda. Giáo pháp Duyên khởi rất thâm thúy và được ngài Ananda thấu hiểu một cách minh bạchrõ ràng. Việc ngài Ananda minh bạch rõ ràng với giáo lý Duyên khởi là một điều bình thường, bởi ngài là bậc đại trí tuệ. Nhưng từ việc thấu hiểu cho tới thực hành rốt ráo giáo pháp là một tiến trình, chứ không phải hiểu pháp là thực hành đạt thánh quả được ngay. Sau đó Phật dạy Ananda giáo pháp Duyên khởi rất ít chúng sanh thấu hiểu, chính vì không thấu hiểu mà “chúng sanh hiện tại bị rối loạn như một ổ kén, rối ren như một ống chỉ, giống như cỏ munja và lau sậy babaja (ba-ba-la) không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sanh tử” [1]. Rồi Đức Phật bắt đầu nói với Ananda về những vấn đề liên quan đến giáo lý này.

Tóm tắt nội dung kinh

Có thể tóm tắt Kinh Đại Duyên qua 4 điểm sau đây:

– Nhân duyên đưa đến sự có mặt của một chúng hữu tình.

– Hai y cứ quan trọng dẫn đến ý niệm về ngã và đồng hóa ngã với thọ.

– Bảy trú xứ có thức và 2 xứ được ngoại đạo xem là cõi vĩnh hằng.

– Con đường dẫn xuất thế gian với 8 cấp bậc giải thoát của thức.

Đức Phật nhấn mạnh về sự có mặt của chúng hữu tình mà chủ yếu là sự có mặt của “cái gọi là con người” và toàn bộ những khổ uẩn mà chúng sanh gặp phải trong thời gian chúng sanh đó có mặt ở cuộc đời, thông qua 9 chi pháp, gồm: Danh Sắc, Thức, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Lão Tử sầu bi khổ ưu não được sanh. Đây là toàn bộ Khổ Uẩn tập khởi. Sau đó, Đức Phật giải thích sự liên quan của các chi phần một cách cặn kẽ và rõ ràng hơn. Bắt đầu từ mối liên hệ của hai chi phần cuối cùng là Sanh và Lão Tử sầu bi khổ ưu não nói ngược lại mối liên hệ với các chi phần trước. Tiếp đến, kinh bàn về các lời tuyên bố về ngã và các lời không tuyên bố về ngã, sự liên hệ giữa ngã và các cảm thọ như thế nào. Cuối cùng là nói về bảy trú xứ của thức, hai xứ và tám giải thoát.

Ngoài ra, kinh này có giải thích thêm một số chi phần ít gặp trong các kinh khác. Đó là do duyên ái, thủ sanh; do duyên thọ, ái sanh; do duyên ái, tìm cầu sanh; do duyên tìm cầu, lợi sanh; do duyên lợi, quyết định sanh; do duyên quyết địnhtham dục sanh; do duyên tham dục, đắm trước sanh; do duyên đắm trước, chấp thủ sanh; do duyên chấp thủhà tiện sanh; do duyên hà tiệnthủ hộ sanh; do duyên thủ hộ, phát sanh ra một số ác, bất thiện pháp.

NHÂN DUYÊN ĐƯA ĐẾN SỰ CÓ MẶT CỦA MỘT CHÚNG HỮU TÌNH VÀ TOÀN BỘ KHỔ UẨN

Định nghĩa

Tựa đề Kinh Đại Duyên gốc tiếng Pali là Mahānidāna Sutta, trong đó: Mahā có nghĩa là lớn, nidāna mang ý nghĩa là một chuỗi dài, điều kiện hay điều kiện cho cái khác phát sinh. Nidāna là một thuật ngữ mà từ tương đương là paccaya có nghĩa là duyên, hoặc hetu có nghĩa là nhân. Sutta: kinh. Như vậy, Kinh Đại Duyên có nghĩa là bản kinh phân tích chi tiết về điều kiện cho một chúng sanh có mặt, với toàn bộ khổ uẩn cùng các pháp bất thiện. Trong Phật giáo, duyên có thể phân chia thành hai loại là duyên hại và duyên sanh

Duyên hại

Giúp cho các pháp được sanh, được trụ ở tại cuộc đời. Tức khi pháp đã được tạo thành, duyên hại hỗ trợ cho các pháp trong quá trình trụ dị diệt. Ví dụ khi một con người sinh ra, không ngừng phát triển và lớn lên theo từng độ tuổi khác nhau. Sự phát triển bao gồm cả tâm lý và vật lý này là nhờ duyên hại mà có.

Duyên sanhduyên khởi

Làm duyên cho các pháp chưa sanh được sanh. Chữ duyên trong bài kinh được dùng theo ý nghĩa này. Đây là quy luật tự nhiên, không thuộc về quyền hành của ai mà trong kinh đã diễn giải: Cái này có thì cái kia có, cái kia sanh thì cái này sanh. Pháp tùy thuộc hay pháp phát sanh do điều kiện, tức ngũ uẩn các hiện tượng danh pháp và sắc pháp đều mang nguồn gốc của những điều kiện khác mà khởi lên. Các pháp tùy thuộc vào quá khứ mà cho chúng ta có mặt trên cuộc đời như thuyết Thập nhị nhân duyên trình bày 12 yếu tố làm nhân duyên sanh khởi. Nếu giải thích theo chiều hình thành chúng hữu tình, Vô minh trong Tứ đế đưa đến sự vận hành của nghiệp thức. Hành có nghĩa là sự vận hành, cũng có nghĩa là tạo tác, sau đó mà có thức đi tái sanh rồi hình thành các yếu tố tiếp theo cho tới Lão Tử sầu bi khổ ưu não.

Nhưng nếu nhìn theo chiều hướng mất đi, chấm dứt dòng sanh tử. Thì kinh giải thích sự chấm dứt của sanh tửkhổ uẩn. Khi chúng ta không có vô minhhiểu biết Tứ đế, thì không có hành, không có nghiệp không có thức để đi tái sanh. Cũng điểm đầu tiên, chúng ta vừa giải thích sự có mặt của một chúng sanh, vừa giải thích được sự chấm dứt của một chúng sanh. Tức cũng từ chi pháp Vô minh mà hình thành đời sống, cũng từ sự chấm dứt của Vô minh này mà chấm dứt sự chuyển tiếp, tái sanh của đời sống. Đây chính là điểm đặc biệt của thuyết 12 nhân duyên

Trong Kinh Đại DuyênĐức Phật đề cập đến 9 trong 12 yếu tố, các chi pháp phối hợp với nhau, vừa là nhân vừa là quả mà xoay vần chuyển tiếp hình thành nên đời sống của chúng hữu tình nói chung và con người nói riêng. Để hiểu về quá trình đưa đến sự có mặt của chúng hữu tình và khổ uẩnchúng ta cần phải giải thích ý nghĩa của các chi pháp cũng như nguyên lý vận hành của chúng.

Giải thích các chi pháp đưa đến sự có mặt của chúng hữu tình và khổ uẩn

Đức Phật nói pháp luôn xem xét căn cơ của người nghe. Ở đây, đối tượng nghe chỉ riêng ngài Ananda, bậc có trí tuệ xuất chúng. Vậy nên, Đức Phật chỉ nói đến đời sống của mỗi chúng sanh từ khi có mặt trên cuộc đời bao gồm 9 chi pháp. Thay vì nói đến 12 chi pháp (bao gồm thêm Vô minh-Hành-Lục nhập) thì Đức Phật chỉ trình bày 9 chi pháp. Ba chi pháp còn lại cũng là yếu tố quan trọng cho việc có mặt của chúng sanh, không có ba chi pháp này thì chúng sanh không có mặt. Nhưng ngài Anan có thể tự hiểu yếu tố này nên Đức Phật không cần phải nhắc lại với Anan. Do vậy, để tìm hiểu tường tận quá trình sanh khởi, ngoài 9 yếu tố mà bài kinh nhắc đến, chúng ta phải tìm hiểu về 3 yếu tố mà bản kinh không nhắc đến.

Chín chi pháp được nhắc đến trong Kinh Đại Duyên

Chín chi pháp được nhắc đến trình tự trong kinh là: Danh Sắc-Thức (Thức-Danh sắc)-Xúc-Thọ-Ái-Thủ-Hữu-Sanh-Lão tử sầu bi khổ ưu não.

THỨC (viññāṇa)

Được hiểu chung là cái biết. Trong bài kinh có nghĩa là tâm tái sanh, tâm tái tục, tùy theo nghiệp thức chúng ta tạo trong đời trước mà chúng ta có 19 loại tâm (theo Vi diệu pháp) đi tái sanh. Trong chuỗi nhân duyên, thức này chính là tư tâm sở (cetanā), tức là hành (hành có hành nghiệp và thức nghiệp tức thức tái sanh (paṭisandhi). Ở một khía cạnh, hai định nghĩa này gần như tương tự nhau. Trong một đời sống nào đó, chúng ta có tạo tác dù thiện hay bất thiện thì cũng hình thành thức tái sanhChúng ta đi đứng, thấy nghe, khổ vui đều do thức tạo tác. 

Vậy thức đi tái sanh như thế nào? Trong khoảnh khắc giao chuyển giữa hai đời sống, sự tiếp nối giữa đời này đời sau, trong thế giới có ngũ uẩn, chỉ có danh và sắc đi tái sanh chứ không có linh hồn hay con người đi tái sanh. Danh và sắc này phải phát sanh cùng một lúc khi vào bụng người mẹ, sắc lúc này rất tế nhị nên chúng ta không thể nhận raDanh sắc lúc nào cũng tồn tại và hoại diệt cùng nhau, luôn đồng hành với nhauChúng ta thường không thấy rõ sắc nên cho danh có trước, sắc có sau, thật ra là chúng luôn có mặt cùng lúc với nhau. Tâm tái sanh lúc này gọi là tâm tái tục hay kiết sanh thức (paṭisandhi) hình thành ngay sau khi kết thúc đời sống trước (tử tâm). Danh sắc đi vào đời sống này là nghiệp của đời sống trước tạo. Những gì huân tập ở đời sống này được ảnh hưởng với nghiệp thức đã tạo ở đời sống trước. Ví như người có phước đời trước thì kiếp này sắc thân sẽ tươi đẹp hơn đời sống trước (danh sắc khác nhau). 

DANH SẮC (nāma-rūpa)

Khi thức tái sanh thì phải có danh sắc (chỉ chúng sanh ở cõi có đủ Ngũ uẩn). Những chúng sanh mà chỉ có danh thôi thì tái sanh về cõi vô sắc (Vô sắc giới thiên là những chúng sanh tu thiền vô sắc, không dùng sắc để làm đối tượng. Vì vậy, khi tái sanh không liên hệ đến sắc uẩn mà chỉ liên hệ tới danh uẩn, không có sắc hoặc sắc của họ tế nhị đến mức độ chúng ta không thể nhìn thấy được). Khi những chúng sanh tạo nghiệp không liên hệ đến sắc thì những chúng sanh này có sắc vô cùng vi tế.

Các chúng sanh ở cõi có đầy đủ sắc thân như cõi dục giới thì sắc thân này được sử dụng và dễ nhận biết hơn. Khi tạo nghiệp mà hồi hướng để hưởng phước ở cõi hiện tại thì chắc chắn chúng ta không giải thoát mà sanh trở lại cảnh giới có ngũ uẩn để hưởng phước, nếu tạo nghiệp mà không mong muốn hưởng phước ở cõi hiện tại thì cắt đứt nghiệp mong muốn có thân, như vậy sẽ sanh về cảnh giới không có thân, hoặc cảnh giới thân vi tế hơn. Những mong cầu, hồi hướng khi tu tập ảnh hưởng tới cảnh giới tái sanh, cùng một hành động tu tập, tạo phước nhưng có những mong cầu làm cho chúng sanh luân hồi mãi. 

Khi thức tái sanh lìa danh sắc cũ, nó tức khắc xảy ra đồng lúc với nghiệp sanh sắc (sắc do nghiệp sanh – sắc này có được khi tinh trùng và noãn gặp nhau), được gọi là sắc thụ thai (kalala) khởi đầu cho một kiếp sống. Sắc thụ thai rất vi tếmắt thường không thể thấy, chính nó làm nền tảng cho tinh cha và huyết mẹ tạo nên phôi đầu tiên của một chúng hữu tình.

Trong bản kinhĐức Phật nhắc đến liên hệ giữa hai chi phần đầu tiên này có sự liên hệ qua lại, tức Thức sanh ra Danh-sắc và ngược lại Danh-sắc cũng sanh ra thức. Như trong Kinh Bó Lau (S.ii, 112) cũng nói về mối liên hệ này: “Ví như hai bó lau dựa vào nhau mà đứng. Cũng vậy, này hiền giả, do duyên danh sắc, thức sanh khởi. Do duyên thức, danh sắc sanh khở” [2]. Hai chi phần Thức và Danh-Sắc sanh khởi cho nhau và cùng nương nhau tồn tại.

XÚC (phassa)

Trong Kinh Tương Ưng định nghĩa Xúc là: “Do duyên con mắt và các sắc, nhãn thức khởi lên. Do ba cái tụ họp, nên có xúc” [3]. Như vậy, Xúc có mặt khi có đủ ba yếu tố là sự gặp gỡ của danh sắc với pháp trần mà khởi lên lên cái biết (căn-trần-thức). Hay nói cách khác, xúc chính là sự gặp gỡ giữa căn-trần-thức, có 6 loại xúc là: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc. Việc tu tập dựa vào cái biết, khi mắt thấy sắc biết đó là khổ thì không theo đuổi rồi bám víu gây ra khổ đau. Còn nếu mắt thấy sắc mà cái biết khởi lên việc ưa thích bám víu thì sanh ra khổ đau. 

THỌ (vedanā)

Những cảm giác vui buồn mừng giận thương ghét hay mong muốn. Chính xúc mà sanh ra cảm thọ. Trong Kinh Đại DuyênĐức Phật dạy cũng có 6 loại thọ là: “nhãn xúc sở sanh thọ, nhĩ xúc sở sanh thọ, tỷ xúc sở sanh thọ, thiệt xúc sở sanh thọ, tỷ xúc sở sanh thọ, ý xúc sở sanh thọ” [4]. Cũng trong kinh này, Đức Phật nhắc đến sự phân loại Thọ theo cảm giác đó là lạc thọkhổ thọ, bất khổ bất lạc thọ. 

ÁI (taṇhā)

Là sự yêu mến, thích thú trong các pháp. Cũng có sáu loại Ái trong Kinh Đại Duyên là: Sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái hay pháp ái. Trong Tiểu Kinh Phương QuảngĐức Phật phân biệt Ái có ba loại: “Hiền giả Visākha, khát ái này đưa đến tái sanhcâu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là dục áihữu ái và phi hữu ái” [5].

Trong đó:

– Dục ái (kāmataṇhā) tức ái trong cõi dục gồm có 12 (lục căn 6, lục trần 6), nếu nhân cho 3 thời thì có 36 ái dục. Đây sự thích thú ham muốn những pháp thế gian.

– Hữu ái (bhavataṇhā) còn được xem là Sắc ái (rūpataṇhā), là ái dục trong cõi sắc, sắc giới; tức là yêu thích, ham muốn những cảm thọ tế vi của tinh thần: đó là hỷ, lạc, xả của các tầng thiền định

– Phi hữu ái (vibhavataṇhā) hay còn được gọi là Vô sắc ái (arūpataṇhā) là loại ái dục phát sanh do chán các sắc, sắc tướngsắc pháp mà ưa thích sống với thế giới tâm thứcý niệm. Từ đó mà họ từ bỏ thiền sắc giới để tiến vào tu tập thiền vô sắc giới

Như vậy, ái bao gồm cả những ham muốn các pháp thế gian đưa đến đau khổ và có cả ham muốn các con đường tu tập xuất thế gian làm nảy sanh thiện pháp. Trong một mức độ nào đó của hành giả đang tu tậpvẫn có loại Ái cần giữ gìn và phát triển, đó là sự ham muốn học hỏi và thực hành các thiện pháp

THỦ (upādāna)

Thủ có nghĩa nắm giữ, chấp chặt, cầm lấy. Khi ái yêu thích một đối tượng nào đấy thì thủ nắm giữ, đam mêchấp chặt đối tượng ấy. Thủ có bốn: Dục thủKiến thủgiới cấm thủngã chấp thủ (tôi, của tôi, tự ngã của tôi). 

Trong đó:

– Dục thủ chính là sự ham muốn chiếm giữ những pháp trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc). Phần lớn chúng ta đều đau khổ rất nhiều bởi những mong muốn chiếm hữu này. 

– Kiến thủ tức là sự bám chặt vào những tri kiến của mình. Chúng ta thường bảo vệ, bám chấp, khư khư giữ lấy cái thấy biết sai lầm của mình, tà kiến của mình. Nói cách khác, mọi tà kiến trên thế gian đều được xem là kiến thủ

– Giới cấm thủ là sự chấp giữ các giới sai lầm, đưa đến khổ đau.

– Ngã chấp thủ là tin vào một bản ngã thường tồn hoặc đồng nhất ngã với một cái gì đó cho rằng đây là tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi. Đây là cái chấp thủ vừa thô vừa tế, rất khó giải quyết chúng trong quá trình tu tập.

HỮU (bhava)

Có hai loại Nghiệp hữu và Sanh hữu.

Nghiệp hữu: Nếu nghiệp hữu là nhân thì sanh hữu là quả tức cảnh giới tái sanh. Dẫn dắt, chủ động, điều động tất cả các nghiệp là do tư tâm sở (cetanā). Vậy, tất cả tư tâm sở trong 29 tâm (theo Vi Diệu Pháp) là nghiệp hữu, đưa chúng sanh tái sanh theo cảnh giới tương ứng trong 3 cõi, 4 loài.

Sanh hữuSanh hữu là thức đi tái sanhSanh hữu có 3 loại chính:

– Dục hữu (kāmabhava): Danh sắc chúng sanh trong cõi dục (địa ngụcngạ quỷsúc sanh, a-tu-la, người, trời).

– Sắc hữu (rūpabhava): Là danh sắc những vị phạm thiên hữu sắc.

– Vô sắc hữu (arūpabhava): Là danh uẩn (tứ uẩn) của những vị phạm thiên vô sắc.

SANH (jāti)

Từ sanh hữu tức thức tái sanh ở phần trên đi tìm cảnh giới tương ưng mà có sự sanh khởi của một chúng sanh trong các cõi. Có các cõi đầy đủ ngũ uẩn, cũng có cõi chỉ có tứ uẩn hay nhất uẩn. Chúng sanh có ngũ uẩn là ở 11 cõi dục giới và 15 cõi sắc giớiChúng sanh có tứ uẩn là ở 4 cõi vô sắcChúng sanh có nhất uẩn là cõi sắc giới vô tưởng thiên.

LÃO, TỬ (jarāmaraṇa)

Khi đã có sanh, ắt phải có tử. Sanh là quá trình hiện khởi của Danh-Sắc trên cuộc đời, Tử là sự hoại diệt của chúng. Chúng ta thường dễ nhận biết sự hoại diệt của sắc thân vật lý hơn là phần Danh. Trong quá trình từ Sanh tới Lão, Tử, một kiếp sống luôn kéo theo sầu bi khổ ưu não. 


Ba chi pháp không được nhắc đến trong kinh

Mặc dù Đức Phật không đề cập trong bản kinh, nhưng đây là ba chi phần quan trọng và tôn giả Ananda tự ngầm hiểu ba chi phần này. Nhờ ba chi phần này mà quyết định cho sự có mặt của chúng sanh. Vô minh-hành là nhân ở quá khứyếu tố quyết định cho sự tái sanh hay không tái sanh của chúng sanh ở đời sống mới. Hay rõ hơn là bất kỳ một sự tái sanh nào cũng tồn tại cả ba chi phần này. 

VÔ MINH (avijjā)

Vô minh là trạng thái không sáng suốt, không tỉnh thức, thường bị si mêbất giác và những triền cái bịt lấp, che phủ. Vô minh làm cho chúng sanh không thấy được thực tánh của các pháp. Ta có thể thấy một số định nghĩa về vô minh trong chư kinh:

Không thấy rõ duyên sinhvô ngã là vô minh. (Tương Ưng IV, 57)

Không thấy rõ danh pháp, sắc pháp là vô minh. (Kinh Vị Tỳ kheo -Tương ưng III, 289)

Không thấy rõ Khổ ĐếTập ĐếDiệt ĐếĐạo Đế là vô minh. (Kinh Vô Minh – Tương ưng V, 622)

Nói chung, sự giải thích Vô minh theo nghĩa không thấy rõ Tứ đế cũng đã bao hàm tất cả. Vô minh là không thấy rõ bản chất của các pháp và con đường giải thoát sanh tử luân hồi. Đây là yếu tố quyết định tái sanh, khổ đau, theo chúng sanh từ quá khứ cho tới hiện tại hay tương lai. Vô minh chính là không biết không thấy, không hiểu bốn sự thật (tứ đế), do vậy mà tạo nghiệp sanh tử. Khi không thấy đâu là khổ, đâu là phương pháp diệt khổ nên cứ ngày ngày tạo thêm những đau khổ. Có khi chúng sanh muốn tìm con đường thoát khổ nhưng lại tạo các nhân khổ để chồng thêm khổ. 

Kinh Vô minh (Tăng Chi Bộ IV, 391), Đức Phật dạy các thức ăn cho vô minh là năm triền cái, ba ác hành, các căn không chế ngự, phi như lý tác ý, không chánh niệm tỉnh giác, không nghe diệu pháp, không gần bậc chân nhân.

HÀNH (saṅkhāra)

Có ba nghĩa chính. Thứ nhất là sự ngấm ngầm hoạt động của thức, sự vận hành của tâm thức điều khiển, đưa ra hành động tham sân si hoặc vô tham sân si. Thứ hai, hành có nghĩa là nghiệp tạo tác, có thể là thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp. Thứ ba là thức đi tái sanh, tiền đề tạo thức đi tái sanh. Nghĩa của Hành được dùng chủ yếu trong quá trình này là hành động có chủ ý (P: cetanā, A: Mental formations or Thought Process). Chính Hành này tác các nghiệp thiện, bất thiện rồi tái sanh trong 3 giới, 4 loài với thức tái sanhVô minh – hành là nhân quá khứ, bất cứ một sự tái sanh nào cũng có sự dẫn dắt trực tiếp hoặc gián tiếp của vô minh và hành. 

LỤC NHẬP (salāyatana)

Không được nhắc đến trong bài kinh vì có ý nghĩa đặc thù. Không phải chúng sanh nào cũng có đủ lục nhập. Nếu các vị tu thiền sắc giới, thì thức duyên cho sắc nếu chúng sanh về cõi sắc giới thiên, cõi này có đủ lục nhập, nhưng không sử dụng mũi, lưỡi, xúc giác, mà chỉ sử dụng nhãn, nhĩ, ý để nhận biết các đối tượng tương ứng. Nếu thức duyên cho danh sắc ở cõi ngũ uẩn thì chúng sanh này có đủ lục nhập, nếu thiếu một trong các căn là do ác nghiệp mà thiếu hụt, vì họ cần mà không có chứ không phải có mà không cần như các cõi kể trên. 

SỰ VẬN HÀNH CỦA CÁC CHI PHÁP ĐƯA ĐẾN CÓ MẶT VÀ DIỆT TẬN CỦA MỘT CHÚNG SANH

Vận hành đưa đến sự có mặt của chúng sanh và những hệ lụy

Để diễn tả về sự vận hạnh của các chi pháp đã được giải thích ở phần trên đưa tới sự có mặt của chúng sanh và những hệ lụy của sự có mặt đó, Đức Phật dạy trong Kinh Đại Duyên rằng: “Như vậy do duyên danh sắc, thức sanh; do duyên thức, danh sắc sanh; do duyên danh sắc, xúc sanh; do duyên xúc, thọ sanh; do duyên thọ; ái sanh; do duyên ái, thủ sanh; do duyên thủ, hữu sanh; do duyên hữu, sanh sanh; do duyên sanhlão tử sanh, do duyên lão tử, sầu, bi, khổ, ưu não sanh. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn tập khởi” [6].

Ngoài ra, Phật cũng đề cập đến sự sinh khởi của các pháp bất thiện bắt đầu từ Thọ: “Do duyên thọ, ái sanh; do duyên ái, tìm cầu sanh; do duyên tìm cầu, lợi sanh; do duyên lợi, quyết định (sở dụng của lợi) sanh; do duyên quyết địnhtham dục sanh; do duyên tham dục, đam trước sanh; do duyên đam trước, chấp thủ sanh; do duyên chấp thủhà tiện sanh; do duyên hà tiệnthủ hộ sanh; do duyên thủ hộ, phát sanh một số ác, bất thiện pháp như chấp trượng, chấp kiếm, tranh đấutranh luận, đấu khẩu, khẩu chiến, ác khẩu, vọng ngữ” [7].

Đây là sự quán sát các chi pháp theo chiều sanh khởi của chúng, dựa trên nguyên tắc cái này vừa là nhân, vừa là quả cho cái kia, cái này có nên cái kia có, cái này sanh nên cái kia sanh. Qua đó, Đức Phật giải thích tiến trình một chúng sanh có mặt trên đời từ khi có danh sắc cho tới sanh, lão tử. Đây là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩnđưa tới hệ lụy, khổ đau, phiền não. Như vậy, khi có duyên từ quá khứ là Vô minh – Hành, từ khi chúng sanh xuất hiện trên đời, quá trình này diễn ra theo một quy luật riêng, chúng ta không thể can thiệp được quy luật Duyên sinh của các pháp.

Đối với Vô minhnguyên nhân đầu tiên của chuỗi sanh tử, theo chúng sanh qua bao kiếp sống. Con đường Đức Phật chỉ dạy xuyên suốt mọi pháp môn, mọi kinh điển chính là Giới – Định – Tuệ tức Bát Chánh Đạo mà thôi, chỉ có đi theo con đường đó để có Tuệ rồi thấu triệt nghĩa Tứ Đế thì mới hết Vô minh.

Các nhân duyên sanh khởi liên tục các chi pháp đều được Đức Phật diễn tả thông qua cuộc đối thoại của Ngài với tôn giả Ananda theo dạng câu hỏi: “Này Ananda, nếu hữu không có bất cứ loại nào giới nào, bất cứ chỗ nào xứ nào, như dục hữusắc hữu hay vô sắc hữuNếu không có hữu cho tất cả, do hữu diệt thời sanh có thể hiện hữu không?” [8]. Và Tôn giả Ananda đều trả lời là không, tức phải có các pháp làm duyên thì các pháp khác mới hình thành. Như nếu không có Hữu thì Sanh không có mặt ở câu hỏi nêu trên. Chính vì nhân duyên liên hệ lẫn nhau như vậy, nên sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn mới hình thành. Quán rõ quá trình này giúp chúng ta nhận biết nhân sinh diệt của một chúng sanh và toàn bộ khổ uẩn, thấy được các pháp vốn Vô thường-khổ-vô ngã. 

Vận hành đưa đến sự diệt tận của chúng sanh

Để cắt đứt quá trình trên, Đức Phật hướng dẫn chúng ta quán ngược lại theo chiều diệt của bất kỳ một mắt xích nào, tức thay vì chi pháp này có nên mới có cái kia thì nhìn theo hướng không có cái này sẽ không có cái kia. Những câu hỏi của Đức Thế Tôn cho Ananda trong Kinh Đại Duyên thể hiện rất rõ điều này, trong Đại Kinh Đoạn Tận ÁiĐức Phật cũng nhấn mạnh: “Cái này không có nên cái kia không có, cái này diệt nên cái kia diệt, như vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên sáu nhập diệt, sáu nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệtsanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này” [9].

Khi nhìn các pháp theo chiều sanh lên, ta sẽ thấy cái này sanh nên cái kia sanh. Còn khi nhìn các pháp theo chiều mất đi, ta sẽ thấy do cái này diệt nên cái kia diệt. Trong đoạn trích dẫn ở trên, ta thấy rõ sự đoạn tận của 12 nhân duyên cùng với toàn bộ khổ uẩn. Khi một pháp bất kỳ trong chuỗi mắt xích được diệt đi, toàn bộ quá trình sanh tử khổ đau cũng đoạn diệt. Vậy nên, thông qua bản kinh, ta cũng biết được nguyên nhân của khổ đau sanh tử và cách đoạn tận chúng.

NGUYÊN NHÂN CỦA ĐAU KHỔ THEO KINH ĐẠI DUYÊN

Thông qua sự phân tích hai chiều sanh khởi và đoạn diệt của một chúng sanh cùng toàn bộ khổ uẩn, ta cũng thấy rõ nguyên nhân khổ đau mà Đức Phật muốn đề cập. Sầu bi khổ ưu não là những hệ lụy do sanh, lão tử mà có. Sanh lại do Hữu, Thủ mà có. Cứ như vậy, ta quán xét thấy nguyên nhân cuối cùng của chuỗi mắt xích là Vô minh (đối với 12 nhân duyên). Như vậy, có thể quả quyết một điều rằng, khổ đau là từ Vô minh mà ra cả. Xong bài kinh cũng giải thích nguyên nhân của khổ khi chúng ta chấp ngã, tức cho rằng tôi là cái này, tôi là cái kia.

Ngã và kiến chấp về ngã

Chúng ta khổ phần lớn vì chúng ta chấp có gì là tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi. Từ đó mà nảy sinh những bất như ý khi mà sự vận hành của nhân duyên vốn dĩ tự nhiên lại đi ngược với mong muốn, đòi hỏi của cái tôi. Cũng chính vì chấp ngã là thật có nên chúng sanh mới khổ đau. Trong kinh, Phật dạy về một số lời tuyên bố về ngã và không tuyên bố về ngã trong Kinh Đại Duyên như sau: 

Bản Ngã hữu sắc và hữu hạn ở ngay hiện tại hoặc vị lai

Bản Ngã hữu sắc và vô hạn ở ngay hiện tại hoặc vị lai

Bản Ngã vô sắc và hữu hạn ở ngay hiện tại hoặc vị lai

Bản Ngã vô sắc và vô hạn ở ngay hiện tại hoặc vị lai.

Từ những kiến chấp về ngã mà người này nảy sinh ý muốn thay đổi mọi thứ theo ngã của mình hay thậm chí là sự cố chấp cô cùng trong cái tôi: “Ngã của tôi không phải như vậy, tôi sẽ uốn nắn cho như vậy” (Kinh Đại Duyên). Nhưng rõ ràngchúng ta không thể làm được những điều như trên, vì vốn dĩ các pháp là do duyên sanh, sự hình thành của chúng ta cũng như vậy. Do duyên sanh nên các pháp vốn vô thường – vô ngã, ta có kiến chấp đi ngược lại bản chất vốn dĩ này, ta khổ là lẽ đương nhiên. Những kiến chấp về ngã như vậy cũng là Ngã chấp thủ, ở một phương diện nào đó, có thể nói từ sự chấp ngã này mà nảy sanh các chấp thủ khác. Khi tìm kiếm một pháp gì để gọi đó là ngã, có khi ta chọn những cảm thọ là ngã.

Sự đồng hóa ngã với thọ

Khi chọn những cảm thọ là ngã ta gọi đó là sự đồng hóa ngã với thọ, điều này Đức Phật dạy trong Kinh Đại Duyên rằng: “Này Ananda, khi có một vị Tỷ kheo không quan niệm ngã là thọ, không quan niệm ngã không phải thọ, không quan niệm: “Ngã của tôi là thọ, ngã của tôi có khả năng cảm thọ”, khi ấy vị này sẽ không chấp trước một điều gì ở trên đời, vì không chấp trước nên không sợ hãi; vì không sợ hãi nên hoàn toàn tự mình tịch diệt. Vị ấy biết sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, sau đời này không còn đời nào khác nữa” [10]. Sự đồng hóa này chính là cho rằng ngã là thọ, ngã không phải thọ. Đây là tà kiến dẫn đến khổ đau, Đức Phật dạy khi từ bỏ tà kiến này sẽ hoàn toàn tịch diệt, sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, không còn sanh trở lại đời này nữa, chấm dứt sanh tử luân hồiĐức Phật đã dạy phương pháp tu tập chính là loại bỏ tà kiến về ngã, đây là một ứng dụng của bản kinh trong đời sống tu tập.

ỨNG DỤNG TU TẬP GIẢI THOÁT NỔI ĐAU

Ngoài việc loại bỏ tà kiến về ngã như đã trình bày ở trên, thông qua bản kinh, người viết xin rút ra một số ứng dụng tu tập cho việc giải thoát. Việc giải thoát sanh tử luân hồi là mục đích sau cùng, song tu tập để đem lại lợi íchthoát khỏi khổ đau nơi kiếp sống hiện tại cũng là điều mà Đức Phật nhấn mạnh. Theo sự quán sát sự sanh khởi và hoại diệt của một chúng sanh và toàn bộ khổ uẩn, các mắt xích liên kết, vừa làm nhân vừa làm quả cho nhau sanh khởi. Từ đó, chúng sanh có mặt rồi sanh tử luân hồi. Khổ đau sanh khởi trong bất kỳ một chi phần nào, Đức Phật tùy vào nhân duyên và căn cơ mỗi chúng sanh mà bắt đầu giải quyết khổ đau của họ nơi chi phần phù hợp. Chỉ cần cắt đứt một mắt xích thì toàn bộ quá trình đều không thể hoạt độngchấm dứt sanh tử khổ đau.

Đối với Vô minhnguyên nhân đầu tiên của chuỗi sanh tử, theo chúng sanh qua bao kiếp sống. Con đường Đức Phật chỉ dạy xuyên suốt mọi pháp môn, mọi kinh điển chính là Giới – Định – Tuệ tức Bát Chánh Đạo mà thôi, chỉ có đi theo con đường đó để có Tuệ rồi thấu triệt nghĩa Tứ đế thì mới hết Vô minh. Việc tu tập bắt đầu từ Thọ, bởi lẽ với Thức và Danh sắc hay Lục Nhập (đối với 12 nhân duyên) thì quá trình đó diễn ra tự nhiên do Vô minh-hành ở quá khứ, rất khó để can thiệp chúng. Vì khi trở thành một chúng sanh, nếu đầy đủ lục căn thì lục nhập là điều không thể tránh khỏi. Còn đối với Thọ, khi một cảm giác khổ, lạc, bất khổ bất lạc xuất hiện chúng ta hoàn toàn kiểm soát được cách chúng ta phản ứng với Thọ. Nếu thấu hiểu Thọ chỉ là một quá trình vô thườngbản chất là vô ngã, chẳng có Thọ nào là của ta, chúng chỉ sanh khởi rồi hoại diệt trên con đường của nó. Khi đó, thọ khổ không sân rồi tìm cầu thọ lạc, thọ lạc không tham đắm rồi sanh Ái, sanh Thủ, sự khổ đau cắt đứt từ đây. 

Nếu ngày từ Thọ mà chúng ta không ngăn chặn được để Ái phát sinh. Nếu có chánh niệmnhận biết ngay lúc này thì tâm Ái sẽ được ngăn chặn. Chúng ta biết được các pháp vô thườngvô ngãkhông thật sự thuộc về chúng ta. Nếu chúng ta ưa ích cho là của riêng mình thì lại sanh ra chấp thủ trong các pháp, cứ như vậy mà khổ đau sanh khởi. Chưa nói đến khổ đau của sanh tử, mà chỉ khổ đau của Ái-Thủ mà không được như ý ở kiếp sống hiện tại cũng đã khó vượt qua rồi. 

KẾT LUẬN

Khi được hỏi có sợ khổ khôngchắc chắn ai cũng trả lời là có và muốn đi tìm con đường hạnh phúc. Song, những hạnh phúc mà chúng ta có được đa phần lại là những ngụy hạnh phúc, đều dựa trên nền tảng khổ đau. Ví như thời đại ngày nay đang thịnh hành lối sống trên thực tế ảo (Virtual Reality – VR), đây là một thế giới được tạo ra từ tưởng tượng của con người thông qua máy móc và những mô phỏng 3D về thế giới. Hoàn hoàn không có gì là thật ở thế giới đó, nhưng con người vẫn sống và trải nghiệm các cảm giác gần như thậthệ thống những kiến chấptham áingã mạn, có nguồn gốc từ Tham Sân Si cũng lôi kéo con người về với thế giới của sự suy tưởng như thế. Sống trong cái ảo lại đi tìm hạnh phúc ảo nên khổ chồng thêm khổ.

Kinh Đại Duyên thông qua hai chiều quán sát của các mắt xích tạo nên đời sống của một chúng sanh và toàn bộ khổ uẩn, cho thấy sự hiện diện của chúng ta chỉ là một quá trình nhân duyên vô tận. Mà nguyên nhân đầu tiên của mắt xích là Vô minh – theo chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay. Khi quán theo chiều sanh khởi của các chi pháp, từ thức-danh sắc mà các chi pháp phát sinh rồi đi đến lão tửsầu bi khổ ưu não. Khi quán sát theo chiều diệt của các mắt xích, ta thấy chỉ cần một mắt xích không còn thì toàn bộ quá trình hình thành chúng sanh và khổ uẩn không còn nữa. Thông qua sự hiểu biết quá trình, thực hiện tu tập quán sát để thật sự thấu hiểu được bản chất của chúng sanh và mọi pháp trên thế gian đều là duyên sinhvô thường, khổ, vô ngã. Không còn tà kiến về ngã, không đồng hóa ngã với bất cứ thứ gì trên đời. Có như vậy, chúng ta mới không còn ham thích để tìm vui trong khổ, rồi ngày càng vun bồi thêm nhân duyên cho sanh tử luân hồi vô lượng kiếp. Thay vì không giác ngộ được các mắt xích thì đời sống rối ren như một ổ kén, giác ngộ rồi chúng ta sẽ tìm thấy đường gỡ rồi mà giải thoát khổ đau. 

Kinh Đại Duyên cùng với các bản kinh khác là nền tảng giáo lý của nhà Phật, cũng chính là tư tưởng đặc trưng của Phật giáo so với các triết thuyết khác. Thay vì tư tưởng đoạn kiếnthường kiến, hay đấng sáng tạoKinh Đại Duyên cho chúng ta cái nhìn thấu rõ nhân duyên sanh khởi của sự sống trong vô vàn kiếp. Cũng mở ra con đường tu tập, để tự thân con người quyết định sự chấm dứt sanh tử luân hồi, nêu cao tính nhân văn, tự quyết của con người trong đời sống của mình.

 

Chú thích và tài liệu tham khảo:

[1] Hòa thượng Thích Minh Châu (dịch, 1991), Kinh Trường Bộ 1, 15. Kinh Đại Duyên, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.512.

[2] S.ii, 112.

[3] Hòa thượng Thích Minh Châu (dịch, 1991), Kinh Tương Ưng 2 Thiên Nhân Duyên, Chương I Tương Ưng Nhân Duyên V. Gia Chủ Phẩm, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.134.

[4] Hòa thượng Thích Minh Châu (dịch, 1991), Kinh Trường Bộ 1, 15. Kinh Đại Duyên, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.516. 

[5] Hòa thượng Thích Minh Châu (dịch, 2012), Kinh Trung Bộ 1, 44. Tiểu Kinh Phương Quảng, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.367. 

[6] Hòa thượng Thích Minh Châu (dịch, 1991), Kinh Trường Bộ 1, 15. Kinh Đại Duyên, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.514. 

[7] Hòa thượng Thích Minh Châu (dịch, 1991), Kinh Trường Bộ 1, 15. Kinh Đại Duyên, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.517.

[8] Sđd, tr.515. 

[9] Hòa thượng Thích Minh Châu (dịch, 2012), Kinh Trung Bộ 1, 38. Đại Kinh Đoạn Tận Ái, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.326. 

[10] Hòa thượng Thích Minh Châu (dịch, 1991), Kinh Trường Bộ 1, 15. Kinh Đại Duyên, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.532.
(Trích từ Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 401)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10904)
Một vùng đất bán sơn địa khô cằn sỏi đá, mùa nắng thường kéo dài. Cây cối gần như khô kiệt. Nhưng cây bồ đề vẫn xanh mát, gần như tách biệt hẳn với cảnh vật xung quanh.
(Xem: 11129)
Mới đầu hạ mà sen đã nở rộ. Nhìn những cánh sen trắng hồng tươi tắn vươn lên từ trong đầm nước, cũng làm dịu bớt cái nắng nóng mà tôi mang tận từ thành phố về đây.
(Xem: 11339)
Bạn sẽ quên được những nhọc nhằn, cay đắng hoặc bất lực của cuộc đời khi bạn hiểu được rằng đời này vốn ảo ảnh, vô thường.
(Xem: 11990)
Rong ruổi trên những nẻo đường quê tháng 8, chợt tiếng trống múa lân trong ngõ nhà ai rộn lên từng hồi làm lòng tôi chợt thấy xuyến xao bao nỗi niềm nhớ...
(Xem: 12113)
Kẻ mất búa nhìn đâu cũng thấy người trộm búa. Ừ! ai cũng hay nhìn cuộc đời qua lăng kính của mình. Chuyện anh Cuội theo đó sinh nhiều ngõ ngách nhiêu khê...
(Xem: 11746)
Đây là một câu chuyện thật về sự hi sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàngNhật Bản. Sau khi trận động đất đã qua đi...
(Xem: 11348)
Mười năm hay bao nhiêu năm đi nữa, thì ánh đạo từ bi và niềm tin của em đối với chị vẫn nguyên vẹn như cái thuở chúng ta cùng hiện hữu trên cõi đời này.
(Xem: 11794)
Dư âm về người là đời sống thanh cao thoát tục, là hạnh nguyên vị tha, là quá trình sáng tạo không ngừng nghỉ. Sư ra đi mang theo nhiều tâm nguyện còn dang dở.
(Xem: 11900)
Sáu mùa xuân trôi qua kể từ ngày chị rời xa trần thế, tôi vẫn không ngờ mình đã xa chị trong ngần ấy thời gian. Một người chị mà tôi luôn gắn bó trong suốt quãng đời tuổi thơ.
(Xem: 13287)
Từ cuối tháng 7 âm lịch, hoa ngô đồng bắt đầu rộ đỏ trên toàn đảo, làm cho Cù Lao Chàm thêm một vẻ đẹp vừa sinh động lại vườn huyền hoặc.
(Xem: 12187)
Biết cảm thông và chia sẻ niềm an vui với huynh đệ, lắng nghe và chấp nhận yếu kém của người khác để cùng nhau tinh tiến tu học, đó là những hạt giống thiện lành.
(Xem: 11699)
Đầu đuôi câu chuyện xảy ra tại Ấn độ, và đúng thật là như thế! Vào khoảng đầu kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, người ta mới thấy bắt đầu xuất hiện các kinh sách Phật giáo...
(Xem: 11377)
Theo các các ấn bản lưu truyền tại Âu châu vào thời Trung cổ thì tại Ấn độ có một vị vua tên là Abener sinh được một hoàng tử kế nghiệp và đặt tên là Joasaph.
(Xem: 10712)
Mỗi chuyến đi là mỗi tầm nhìn được mở rộng. Mỗi chuyến đi giúp chị nhận thức rõ hơn bức tranh muôn màu của kiếp sống nhân sinh.. Chị có được những giây phút tĩnh lặng...
(Xem: 10048)
Bờ biển buổi sáng thật yên tĩnh. Tôi đi lần ra cồn cát ngay phía trước cổng chùa. Nước rút làm cho bờ cát thoai thoải trải dài một màu trắng bạc lấp lánh.
(Xem: 10480)
Dù gì thì đời sống tu hành của thầy cũng thật giản dị. Nơi thầy ở vẫn là mái am tranh đơn sơ, ăn uống thì đạm bạc, áo vải sờn vai mà vẫn thong dong tự tại với tháng ngày.
(Xem: 10807)
Quanh bờ suối, rải rác nhiều tảng đá lớn nhỏ với đủ hình thù tạo dáng lạ mắt gợi lên một phong cảnh trầm mặc u nhàn. Tuấn nhìn thấy màu y vàng của một vị sư...
(Xem: 10254)
Thời gian thấm thoắt qua nhanh, cuối cùng Ông tìm đến khu rừng Tuyết này để tịnh tu. Đạo mầu chưa chứng, nhưng Ông cũng tự tìm thấy niềm vui trong pháp thiền định.
(Xem: 11259)
Ấn tượng nhất vẫn là tượng Phật lộ thiên cao gần ba mươi mét, uy nghi giữa bốn bề lồng lộng mây trời gió núi. Tượng Phật đúc xi măng, trong ruột đổ đá xanh...
(Xem: 9854)
Ánh nắng chiều xuyên qua cửa sổ làm thầy thức giấc. Bước ra sân, thầy ngạc nhiên nhận ra cây cỏ trong vườn dịu dàng lan tỏa một sắc xuân.
(Xem: 10838)
Tâm tư cảm kích, nguồn cảm hứng dâng trào, nhà văn yên lặng suy nghĩ ra chiều tâm đắc. Ờ! Ta cũng là kẻ ăn mày nương nhờ cửa Phật.
(Xem: 11079)
Mấy năm sau này mẹ chị thích lui về sống cuộc đời tu niệm tại gia. Thế là chị cho xây một am thất ngay trong khu vườn cây xanh tĩnh lặng ở ngoại ô...
(Xem: 12538)
Thầy luôn ở bên cạnh, đôi mắt hiền từ nhìn con đầy tình thương ấm áp của người cha, miệng mỉm cười trao truyền sự an lạc từ tâm hồn tới tâm hồn.
(Xem: 12887)
Kính bạch thầy Quan Thế Âm. Thầy là vị Bồ tát có lòng đại từ, đại bi nên thầy có thể nghe mọi nỗi khổ đau của không chỉ nhân thế mà cả vạn loại chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11893)
Kính bạch thầy Di Lặc. Thầy có biết không, con đã ứng dụng thực hành giáo lý mà thầy Bổn sư Thích Ca Mâu Ni đã truyền dạy. Mỗi ngày con phải biết mỉm cười...
(Xem: 11631)
Nếu hành Bồ tát đạo thì bạn sẽ kiến tạo được bằng an cho mình - một trong vô vàn chúng sinh trong lục đạo. Khi ấy bạn sẽ có vốn liếng bằng an để hiến tặng cho người.
(Xem: 11376)
Thực ra, phiền não khổ đau chỉ biểu hiện khi tâm ta bị màn vô minh che lấp, bị chi phối bởi sự điều động của bản ngã tham sân si.
(Xem: 10110)
Sanh tử khứ lai chỉ là mộng huyễn. Làm thế nào khi rời trần thế mà lên được đài sen mới là thượng sách, mới là Phật tử chân chính...
(Xem: 11832)
Hãy im lặng để nhìn thì tôi tin bạn sẽ “ngộ” ra nhiều thông điệp sống mà cuộc đời trao ban cho mình.
(Xem: 10897)
Trời ở đây đã bắt đầu vào thu. Mỗi sớm mai khi mở cửa tôi vẫn được nhìn thấy mặt trời dần lên sau những cụm mây hồng.
(Xem: 10817)
Từ khi, tôi biết chú ý đến hơi thở và biết lắng nghe tiếng nói của con tim mình, tôi biết buông xả hơn, cười tươi hơn và biết thở đúng hơn.
(Xem: 12602)
Tôi chưa bao giờ thấy thầy tôi nổi giận, cho dù anh em chúng tôi có làm điều sai lầm. Thầy thường nhỏ nhẹ, nhắc nhở và dạy thật cặn kẽ mỗi khi chúng tôi phạm lỗi.
(Xem: 16317)
Chùa Thiện Minh, nơi tổ chức Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn lần thứ 5, do Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt là trưởng ban... Thích Nguyên Siêu
(Xem: 12073)
Ðạo Phật hiện diện êm đềm quanh ta. Trong một thời gian dài, cứ chặng năm giờ sáng là nằm trong giường tôi nghe tiếng gõ mõ tụng kinh...
(Xem: 11831)
Nắng trong vườn thơm hương hoa bưởi, nắng gió ngạt ngào quyện bát ngát cõi tâm hương. Giới, Định, Tuệ là đây; Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến cũng là đây.
(Xem: 10385)
Sư vốn con nhà trưởng giả ở Kinh Thành. Xuất gia từ nhỏ. Cốt cách tài hoa, nên càng lớn càng tự thị. Sở học rộng rãi.
(Xem: 10519)
Theo luật nhân quả, tất cả mọi sự, mọi vật, không chừa một việc gì, đều xảy ra từ một hay nhiều nguyên nhân nào đó. Như người trồng cam thì sẽ được cam.
(Xem: 10451)
Ông là một “người lính già” đặc biệt, một “người lính già” bất tử, vì ông cũng đồng thời là một thiền sư, vì ông đã ngộ đạo với Thượng sĩ Huệ Trung trước đó.
(Xem: 11648)
Những ngày trời nắng, khi những giếng khác quanh đó đã cạn, giếng nước xóm tôi cũng chỉ hơi vơi đi một chút, rồi những cơn mưa bất chợt lại làm đầy lên.
(Xem: 12160)
Không biết tự bao giờ những câu nói dân dã quen thuộc của ba, của mẹ, của bà con hàng xóm vất vả tảo tần với cây lúa của khoai đã in sâu trong suy nghĩtâm thức của tôi
(Xem: 11689)
Việc Sầm Hoa dịch từ “tự viện” thành “chùa”, và lược dịch “Ấn Độ giáo cao cấp tăng lữ” thành “cao tăng” tức là đã có chủ ý nhắm đến đạo Phật, muốn bôi nhọ chư Tăng.
(Xem: 10611)
Những khám phá độc đáo và những lời dạy về sự giác ngộ đã trở nên gần gũi hơn qua việc thực hành tôn giáo, với khái niệm lúc ban đầu về Phật giáo đang tiến triển dần...
(Xem: 11118)
Con đường mà mỗi người phải trải qua quả thật đầy rẫy những chướng ngại, hoang mang và lầm lẫn. Vì thế phải cần có một vị thầy đích thật...
(Xem: 12058)
Trí Hải đã vượt suối trèo non tìm lên chùa Từ Vân trên núi Ngọc Trảng, phía Tây núi Kim Phụng, đến gặp thiền sư Trúc Lâm...
(Xem: 10260)
Diễm phúc sao trong phút cuối trong một đời kẻ vô nghì như tôi với quá nhiều tội lỗi lại được Hoà Thượng trụ trì ngồi niệm hồng danh Phật tiếp dẫn.
(Xem: 11346)
Hạnh phúc của con người không đến từ sự thù hận, tức giận cho nên sự trang trải tình thương trong cuộc sống xã hội là điều cần thiết nhất để hóa giải sự xung đột.
(Xem: 10780)
Xin nhớ rằng: chính nhờ những trải nghiệm khổ đau chúng ta mới đánh giá đúng đắn và hiểu thấu giá trị đích thực của hạnh phúcan lạc...
(Xem: 10541)
Thường hay tự nhủ rằng: Mình không có được cái diễm phúc sanh nhằm thời có Phật, nhưng được nghe Pháp Phật; được gặp người bạn đồng tu và được làm thân người.
(Xem: 10023)
Thiện tâm không chấp nhận máu đổ để chiến thắng nên ăn chay, không giết hại muôn loài là giải nghiệp sát sanh.
(Xem: 11346)
Những năm trước, hai gốc tùng trước sân như hai đứa trẻ, dáng điệu miệt mài trong cơn gió hiu hắt của mùa thu. Quanh năm suốt tháng, không một lời qua lại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant