Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật: Nhà Giáo Dục Vĩ Đại

05 Tháng Mười Hai 202209:00(Xem: 2027)
Đức Phật: Nhà Giáo Dục Vĩ Đại
Đức Phật: Nhà Giáo Dục Vĩ Đại

Thích Huệ Khai

hinh phat 13


Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài và tôn kính Ngài như một vị đạo sư siêu việt nhất trong lịch sử nhân loại.

IDẪN NHẬP

Dòng thời gian vẫn tiếp diễn qua nhanh như cố tìm quên cái gì của quá khứ, hết Xuân đến Hạ, Thu tàn Đông sang, vạn vật cứ chuyển xoay theo dòng đời vô tận. Qui luật vô thường là thế. Hơn hai mươi lăm thế kỷ trôi quavạn vật đều lắng chìm tận đáy dòng đời sanh diệt, diệt sanh. Thế nhưng cái giá trị nghìn đời của chân lý đạo đức sống của Đức Thích-ca-mưu-ni, vẫn hiển hiện muôn màu, muôn vẻ. Bao tinh anh kết tụ và hội nhập tạo thành một vầng trăng chân lý vi diệu giữa hư không, vầng trăng ấy đã soi sáng rạng ngời, xua tan bóng tối vô minh của đêm trường tham ái, mang lại hạnh phúc cho con người.

Hôm nay, bao khối óc, bao con tim từ phương trời đất Việt trở về đây cùng hòa chung nhịp, đồng một chí hướng ngồi lại bên nhau, ôn lại chân lý ấy. Chân lý của con đường giải thoát mà Đức Thích-ca-mưu-ni đã đạt được tại Bồ-đề Đạo Tràng này.
Suốt 45 năm du hành giáo hóa, sứ mệnh hoằng pháp của Như Lai chỉ tuyên dương con đường giải thoát. Những lời dạy của Ngài đã được kết lại thành Tam Tạng Thánh Điển. Ngày nay, được các nhà nghiên cứu trên thế giới nhận xét và đánh giá khác nhau. Giáo lý ấy ví như viên kim cươngtùy theo góc độ người đứng xem mà nhận xétVì vậy, có người đánh giá Ngài như một nhà triết học, lại có người nhận xét Ngài như một nhà khoa học, cũng có người cho rằng Ngài là nhà tâm lý học, nhà hùng biện…. Trong bài viết ngắn này, chúng tôi xin trình bày vài nét về Đức Phật Thích-ca-mưu-ni như là một nhà Giáo dục vĩ đại.

II. VÀI NÉT VỀ GIÁO DỤC CỦA ĐỨC PHẬT

Các nhà nghiên cứu giáo dục Phật Giáo cho rằng nền giáo dục cổ đại Ấn Độđặc biệt là tinh thần giáo dục của Upanishad, chỉ nhằm khám phá ra sự huy hoàng của ánh đuốc thiên đàng, làm cho con người có cuộc sống ảo tưởng với vầng hào quang huy hoàng ấy. Theo kinh Badaryana của Bà-la-môn, mục tiêu giáo dục là nhằm tạo ra con người trí tuệthánh thiện và siêu nhiênVì vậymục đích giáo dục cổ đại Ấn Độ là chỉ đem lại tính chất làm tăng trưởng sức mạnh của tâm thức. Với ý tưởng phát triển hiểu biết của con người, giúp con người đứng vững đôi chân của mình bằng trí tuệ, lòng tự tin để mạnh dạn bước đi cho hết kiếp người trên đường đời đầy chông gai nghiệt ngã này. Hay nói cụ thể hơn, nền giáo dục cổ đại Ấn Độ nhắm tới việc xây dựng con người chân thật, theo đúng ý nghĩa của nó.

Theo Phật giáocon người là trung tâm điểm. Sự chiến tranh hay hoà bình của nhân loại từ xưa đến nay đều do con người gây ra. Vấn đề chính yếu là làm thế nào để giáo dục con người thẳng tiến trong con đường phát triển trí tuệ một cách có phương pháp để đem lại an lạc và hạnh phúc cho mình và người. Điều đó, đối với các nhà giáo dục cổ đại Ấn Độ lúc bấy giờ chỉ là một giấc mơ. Mãi đến khi tôn giả Gotama đạt được giác ngộ tại Bồ-đề Đạo Tràng này, thì giấc mơ ấy trở thành hiện thựcĐức Phật đã vạch ra con đường giáo dục cụ thể, có lý thuyết, có thực hành và có kết quả trí tuệgiải thoát khỏi khổ đau thật sự từ con người, ngay trong đời sống hiện tại.

TINH THẦN GIÁO DỤC CỦA ĐỨC PHẬT

Đức Như Lai là một nhà giáo dục bình đẳng, Ngài tuyên bố với nhân loại rằng cánh cửa thành công đạt được con đường giải thoát phải rộng mở cho tất cả mọi người, từ nam nữ, lớn nhỏ, sang hèn, cao thấp, đạo đức hay tội lỗi. Nếu ai biết cải thiện đời sống trong sạch thì sẽ đạt được con đường giải thoát như đức PhậtTrong lịch sử nhân loạiđức Phật là người đầu tiên phủ nhận các học thuyết về tập cấp xã hội, trong đó, thể chế người có sức mạnh sẽ cai trị và là chân lý trong khi người yếu sức sẽ bị làm nô lệĐức Phật đã nâng những giai cấp thấp tận cùng xã hội đứng ngang hàng địa vị của những người được coi là giai cấp cao nhất lúc bấy giờ, thông qua tiêu chí đạo đức và trí tuệ. Cũng chính đức Phật, người đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đã đưa vai trò người phụ nữ lên địa vị cao bằng cách thiết lập giáo đoàn nữ đầu tiên trong lịch sử các tôn giáo. Theo đức Phật, nếu giá trị thật của con người nằm ở đời sống đạo đức và trí tuệ thì con đường giác ngộ giải thoát không có ranh giới của giới tính, chủng tộc, màu da . . . Bất cứ ai, một khi thực hành đúng chánh pháp sẽ chắc chắn chứng đắc được các quả vị như nhau, đạt được hạnh phúc và an lạc như nhau.

MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC CỦA ĐỨC PHẬT

Mục đích giáo dục của Đức Phật nhắm vào con người nhiều hơn, vì con người là trung tâm điểm của thế giớiHạnh phúc hay khổ đau, hòa bình hay chiến tranh cũng từ con người mang đến. Do đó, để xây dựng một xã hội vững mạnh và an định về kinh tế, chính trị, quốc phòng, văn hóagiáo dụctrước tiên theo đức Phật phải giáo dục con người chính nó, từ mặt vật lýtâm lýsinh lýcho đến ý chí tình cảm và trí tuệ. Đọc lại kinh Thiện Sanh thuộc kinh Trường Bộ số 16 (1) chúng ta sẽ bắt gặp Đức Phật nói về sáu mối tương quan để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Đó là mối tương quan giữa cha mẹ và con cái; giữa Thầy và trò; vợ và chồng; cá nhân và bà con láng giềng, bạn bè; chủ và thợ; tu sĩ và cư sĩ. Trong đoạn kinh khác (Kinh Du Hành số 2- Trường A Hàm I), đức Phật trả lời gián tiếp với Bà-la-môn Võ-xá, đại thần của vua A-xà-the,?về bảy phương pháp làm cho đất nước cường thịnh. Kinh Tăng Chi, chương 7 pháp cũng đề cập đến 7 điều làm cho đất nước phồn vinh. Trong Kinh chuyển Luân Thánh Vương Tu Hành số 6 (Trường A Hàm I) Đức Phật dạy, sở dĩ có người trộm cắp, hung ác, cướp bóc là do họ nghèo đói. Muốn chấm dứt nạn này (trộm cắp, hung ác, cướp bóc) thì phải cải thiện đời sống cho họ, cấp hạt giống cho người dân, đầu tư cho các thương gia và phải trả công thích đáng cho người làm thợ. Ngài cũng dạy, nên thay đổi chi phí cúng tế thần linh để cứu trợ cho người dân nghèo. Toàn bộ hệ thống giáo lý của đức Thế Tôn không ngoài mục đích cải tạo con người xấu thành người tốt, người tốt trở thành người tốt hơn, phàm thành thánhGiáo dục của Phật giáo là giáo dục chuyển hoá bản thân và xã hội, trên cơ sở tự lực của mỗi người.

PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC CỦA ĐỨC PHẬT

Từ khi thành đạo cho đến ngày đi vào đại niết-bàn, Đức Như Lai không ngừng giáo dục cho nhân loạiTrong suốt quá trình 45 năm dài (theo kinh điển Pali) hay 49 năm (theo kinh điển Đại thừa), đức Phật đã tiếp xúc nhiều đối tượng khác nhau trong mọi tầng lớp xã hội, từ các nhà trí thứcđạo sĩ ngoại đạo, vua quan, người giàu sangcho đến người thấp hèn, hạng người sát nhân, gái giang hồ, trẻ chăn trâuác machư thiên, càn-thác-bà. Có khi Ngài dạy cả số đông hay một nhóm người hoặc nếu cần Ngài chỉ dạy cho một người. Sau thời giảng của đức Phật đều có người đắc được quả thánh thứ nhất và cuối cùngPhương pháp của đức Phật nằm trên tính khế cơ, phân tích, giải thích rất tỉ mỉ và nhắc đi nhắc lại nhiều lần vấn đề gạn lọc tâm ý để thiện hoá con người và xã hội. Ngài thường dùng hình ảnh so sánh hoặc ví dụ và chọn lọc những gì mà chúng sanh đang cần dạy và liên quan đến cuộc sống hiện tại của người nghe, để giúp cho người nghe dễ dàng lãnh hội những ý tưởng sâu sắc trong những ngôn ngữ rất mộc mạc, bình dânVí như trong Kinh Tiễn Dụ số 221,(2) Tôn giả Man Đồng Tử đặt ra mười câu hỏi siêu hình để hỏi Thế Tôn: "Thế giới thường hay vô thường? Như Lai có tồn tại sau khi chết? v.v..." Thế Tôn đã im lặng không trả lời. Ngài nói cho Man Đồng Tử nghe câu chuyện một người bị mũi tên độc. Vấn đề cấp thiết là giải phẫu để giải độc ngay, chứ không phải là vấn đề tìm cho ra ngọn ngành mũi tên và người bắn mũi tên, bởi lẽ người trúng tên độc sẽ có thể chết trước khi biết được tông tích của hung thủ. Cũng thếvấn đề cấp thiết của con người là nhổ mũi tên "khổ đau" chứ không phải đi tìm những câu trả lời cho các vấn đề siêu hình không thiết thựcMột lần khác ở Kosambi (Tương Ưng Bộ Kinh V), Thế Tôn dạy các Tỷ-kheo: "Những gì Như Lai biết ví như rừng lá Simsàpa, còn những gì mà Như Lai giảng dạy thì ít như nắm lá trong tay, nhưng đây là những phương thức thoát khổ." Đấy là tính chất thực tiễnthực tế, rất thiết thực hiện tại của những lời giảng dạy của Thế TônChúng ta còn thường thấy ở các kinh khác, ý nghĩa thiết thực hiện tại được Thế Tôn cắt nghĩaquán sát tự thân, tự tâm để thấy rõ tham, sân, si mà đoạn trừ. Chẳng hạn như pháp Tứ Đế, khi nào còn con người tham dục- còn đau khổ thì chân lý Tứ Đế vẫn còn tồn tại giá trị nghìn đời. Đó là một trong các ý nghĩa thiết thực nhất của bốn chân lý này.
PHONG CÁCH DẠY CỦA ĐỨC PHẬT

Như đã nói ở trên, Đức Phật là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại, phủ bác các chế độ tập cấp xã hội. Ngài luôn luôn nâng cao tinh thần tự do và bình đẳng. Ngài không bắt buộc người học trò rập khuôn theo Ngài, cũng không bắt buộc học trò nô lệ giáo lý hoặc nô lệ chính Ngài. Những ai học với Ngài đều được quyền tự do tư tưởngĐức Phật thường dạy các đồ đệ đừng vì kính nể, tôn trọng Ngài mà nhắm mắt tin theo lời Ngài dạy. Hãy thực hành lời ngài dạy nếu tự mình tư duy, kiểm nghiệm và cảm thấy có lợi ích. Phong cách dạy của Đức Phật đặt trên nền tảng trí tuệ và giải thoát làm căn bản. Bởi vậy, khi tiếp nhận lời dạy của Đức Phật phải suy tư, phải tìm hiểu một cách kỷ thì mới có thể lãnh hội hết ý nghĩa thâm sâu chứa đựng bên trong, và dĩ nhiên lợi ích của nó lại càng to lớn hơn nữa. Trong kinh Kitagini (Trung Bộ II) Đức Phật dạy người học trò chơn chánh phải:"có lòng tinđến gần; tỏ lòng tôn kính; lắng tai; nghe phápthọ trì pháp; suy tư ý nghĩa các pháp; chấp nhận các pháp; ước muốn sanh khởinỗ lựccân nhắc và tinh cần."

Đức Phật vừa là một vị Thầy vừa là một vị Cha (Thiên Nhơn chi Đạo SưTứ Sanh chi Từ Phụ) của loài người và loài thần linh. Ngài luôn thể hiện lòng từ mẫn thương tưởng đến tất cả chúng sanh. Ngài dẫn dắt, an ủinâng đỡ những bà mẹ bạc phước như Patàcàrà và Kisàgotami. Tự tay Ngài chăm sóc cho những người bịnh hoạn, cô đơn như Patigatta Tissa Thera. Ngài giúp đỡ người nghèo đói và người bị bỏ rơi như Rujjumàlà và Sopàka. Đức Phật nâng đời sống đạo đức của những hạng người tội lỗi sát nhân như Angulimàla và hạng gái gian hồ hư hỏng như Ambapali. Ngài khuyến khích kẻ yếu hèn, đoàn kết lại những người chia rẽ .Tất cả đều hưởng được những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài. Đức Phật là một vị Thầy bao giờ cũng thể hiện tình thân thiện đến những người học trò. Ngài thường sinh hoạt bên cạnh người học trò, theo dõi từng dòng tư tưởng của học trò, ví như người bác sĩ từng sống cùng bịnh nhân, nên hiểu từng căn bịnh của bịnh nhân mà cho thuốc.

Đức Phật là vị Thầy không độc quyền, không độc đoán và không độc tài lãnh đạo giáo hội. Ngài khuyên các đệ tử lớn, như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên . . . thu nhận đệ tửĐức Phật ân cần truyền trao kinh nghiệm phong cách một vị thầy cho các đệ tử. Đó là những mối tương quan, ảnh hưởng qua lại giữa thầy và trò. Đối với người Thầy đức Phật dạy phải:
- Có lòng thương tưởng đến người học trò.
Rèn luyện phẩm hạnh và tư cách đạo đức cho học trò.
- Truyền dạy cho học trò đến nơi đến chốn những kiến thức khoa học và trí tuệ của người xưa.
Ngợi khen học trò trước mặt các bạn bè, và người thân.
Bảo vệ học trò khỏi những nguy khốn của cuộc đời.
Ngược lại, người học trò phải thể hiện đúng bổn phận của mình:
- Phụng dưỡng Thầy chu đáo.
Đứng dậy chào khi Thầy đi tới và hầu hạ khi thầy cần đến.
- Lắng nghe lời Thầy dạy với lòng tôn kính.
Thực hành những bổn phận cần thiết đối với Thầy.
Hết lòng thực hiện những điều Thầy dạy (nếu những điều đó đúng Chánh Pháp).

Những gì Đức Phật dạy đều phát xuất từ đời sống kinh nghiệm và chứng đắc của bản thân. Sau khi thực hành có hiệu quảđức Phật đã truyền dạy lại cho chúng sanh. Trong Kinh Tăng Chi I,(3) Đức Phật đã tán dương và xác nhận Tôn giả Xá-lợi-phất là đệ tử trí tuệ đệ nhất. Cũng trong kinh này, một lần khác Đức Phật dạy: "Các Tỷ-kheo mong cầu một cách chơn chánh, sẽ mong cầu như sau: "Mong rằng ta sẽ như Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên." Đây là cán cân, này các Tỷ kheo, đây là đồ đo lường đối với các đệ tử Tỷ-kheo của ta, tức là Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên."(4) Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên thường thay mặt Đức Phật giảng dạy hoặc hướng dẫn trực tiếp đại chúng và các Tỷ-kheo trẻ tuổi.

Tóm lạiĐức Phật là một vị Thầy giàu lòng bi mẫn và rộng lượng khoan hồ?g hơn tất cả. Đức Phật đã truyền dạy cho chúng ta những ý chí sắt đátrí tuệ cao siêu, đức vị tha phục vụ, sự thoát ly chưa từng có, hãy sống đời gương mẫu, làm lợi lạc cho mình và người và cả hai. Phương pháp toàn thiện mà Đức Phật đã truyền bá cho chúng ta có nhiều kết quả mỹ mãn. Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài và tôn kính Ngài như một đạo sư siêu việt nhất trong lịch sử nhân loại, như Sri Radhakrishnan nói: " Nơi Đức Phật Cồ-dàm ta nhận thấy một tinh hoa toàn thiện của phương Đông. Ảnh hưởng Ngài trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hi hữucho đến ngày nay không thua kém của bất cứ vị giáo chủ nào trong lịch sử."(5)

III. KẾT LUẬN

Đức Phật là nhà giáo dục vĩ đại, phương pháp giáo dục của Ngài không chỉ khế cơ, khế lý mà còn khế thời, phù hợp và đáp ứng được những gì mà chúng sanh, hôm qua, hôm nay và ngày mai mong đợi. Ngài là người đem lại ánh sáng trí tuệ giác ngộ cho cuộc đời và diệt trừ nhưng nguyên nhân gây khổ đau cho cuộc đờiĐức Phật xuất hiện trên thế gian này, không ngoài mục đích chính là chỉ bày cho tất cả chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến của chính mình. Hay nói đúng hơn là "Vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho Chư thiên và loài người." Vì mục đích tốt thượng đó, suốt bốn mươi lăm năm, Đức Thế Tôn phục vụ cho tất cả chúng sanh không ngừng nghỉ.

Hôm nay, chúng ta ôn lại giáo lý của Đức Phật, không phải để đánh giánhận xét hay để thưởng thức như một bức tranh toàn hảo, mà nhằm cùng chiêm nghiệm để thực hành trên con tu tập của chúng taHình ảnh đầu trần, chân đất, một bình bát và ba y đi khất thực hằng ngày, có thể chúng ta không thực hành được như Ngài. Những điều giác ngộ cao siêu như Ngài, chúng ta cũng có thể chưa đạt được. Nhưng phong cách một vị thầy và lời dạy của Ngài, chúng ta sẽ thực hành được. Vì những điều Đức Phật dạy không vượt ngoài khả năng con người.

Khi viết bài này, chúng tôi cốt chỉ khái quát vài nét nhỏ về phương pháp và phong cách giáo dục của đức Phật như một vị Thầy vĩ đại. Chúng tôi cố giắng trình bày, nhưng không thể nào diễn tả hết sự kỳ diệu của phương pháp giáo dục của ngài, chẳng khác nào như con muỗi uống nước đại dương. Mặc dù vậy con muỗi cũng cảm nhận được vị nặn của dòng nước đại dương ấy.

Chú thích:
(1) Đại Tạng Kinh Việt Nam Aa1, Kinh A Hàm I, Viện Nghiên cứu Phật Học Việt Nam, 1991, tr. 566-574.
(2) Đại Tạng Kinh Việt Na, Kinh Trung A Hàm IV , Viện Nghiên cứu Phật Học Việt Nam, 1992, tr 738-747.
(3) Kinh Tăng Chi I, bản dịch của HT Thích Minh Châu, 1980, tr.30.
(4) Kinh Tăng Chi I. tr.102.
(5) Gautama the Buddha, tr.1


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1070)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1014)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1055)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1059)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1199)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 959)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 936)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1003)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1134)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1163)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 926)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1034)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 994)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1099)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1099)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1239)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1278)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1070)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1085)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1184)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1216)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1155)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1438)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1081)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1147)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1179)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1042)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1083)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1191)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1274)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1343)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1507)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1365)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1297)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1066)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1174)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1150)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1200)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1166)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1101)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1315)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1383)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1410)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1309)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1259)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1085)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1167)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1179)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1246)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant