Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tánh Không Là Tánh Như

07 Tháng Mười Hai 202211:36(Xem: 1667)
Tánh Không Là Tánh Như

Tánh Không Là Tánh Như

Nguyễn Thế Đăng

 
Tánh Không Là Tánh Như


Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánhvô sở hữubất khả đắcvô sanh, như huyễn… Điều đó khiến người học dễ tưởng rằng tánh Không chỉ hoàn toàn là phủ định.

Thật ra, các kinh còn nói đến tánh Như như một khẳng định. Ở đây chữ phủ định và khẳng định, tiêu cực và tích cực chỉ được dùng như một cảm giác ban đầu, chứ tánh Không và tánh Như thì vượt khỏi mọi khái niệm thường tục.

Tánh Như không những được đề cập trong nhiều phẩm của các bộ Bát nhã, mà còn có những phẩm nói riêng về Như, chẳng hạn phẩm Đại Như thứ 54 Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Tiểu Như và phẩm Đại Như trong Kinh Bát nhã ba la mật tiểu phẩmphẩm Chân Như thứ 16 trong Kinh Phật thuyết Phật Mẫu xuất sinh tam pháp tạng Bát nhã ba la mật, phẩm Chân Như ở Hội thứ 4 và Hội thứ 5 Kinh Đại Bát nhã ba la mật đa 600 quyển do ngài Huyền Trang dịch.

Như, như như tánh, chân như, tiếng Sanskrit là tathataLiên quan đến “như” còn có chữ “như thật”, yathabhutaĐức PhậtNhư Lai, cũng có chữ Như này, Tathagata.

 

Sau đây sẽ trích một đoạn trong kinh Đại Bát nhã để tìm hiểu về Như hay tánh Như.

Đức Phật dạy: Lại nữa, Tu Bồ Đề! Phật biết rõ tướng sắc, biết rõ tướng sắc thế nào? Chính là tướng Như: như như chẳng hoại, không có phân biệt, không có tướng, không có nhớ tưởng, không có hý luận, không có đắc. Tướng sắc cũng như vậy, cũng chẳng hoại cho đến cũng không có đắc.

Tu Bồ Đề, Phật biết rõ tướng thọ, tưởng, hành, thức. Biết tướng thọ tưởng hành thức thế nào? Chính là tướng Như: như như chẳng hoại, không có phân biệt, không có tướng, không có nhớ tưởng, không có hý luận, không có đắc. Tướng thọ tưởng hành thức cũng như vậy, cũng chẳng hoại cho đến cũng không có đắc.

Như vậy, Tu Bồ Đề, Phật biết rõ chúng sanh tướng Như và tâm sở khởi lặng, co giãn của chúng sanh là tướng Như, năm uẩn tướng Như, các hành tướng Như, cũng chính là tướng Như của tất cả các pháp.

Tướng Như của tất cả các pháp là gì? Đó là sáu ba la mật tướng Như, tức là ba mươi bảy phẩm trợ đạo tướng Như, tức là mười tám Không tướng Như, tức là tám bội xả tướng Như, tức là chín thứ đệ định tướng Như, tức là mười trí lực tướng Như, tức là bốn vô uýbốn vô ngại trí, đại từ đại bimười tám pháp bất cọng tướng Như. Tức là nhất thiết chủng trí tướng Như. Tức là pháp thiện, pháp bất thiện, pháp thế gian, pháp xuất thế gianpháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp quá khứvị laihiện tạipháp hữu vi vô vi tướng Như.

Tức là quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, quả Độc Giác Phật, quả Vô thượng Giác ngộ và chư Phật tướng Như. Chư Phật tướng Như đều là tướng Nhất Như, chẳng hai chẳng khác, chẳng tận chẳng hoại. Đây gọi là tướng Như của tất cả các pháp.

Phật do Bát nhã ba la mật biết được tướng Như ấy. Vì thế Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật hay hiển thị tướng thế gian.

Thế nên, Tu Bồ Đề! Phật biết rõ tất cả các pháp là tướng Như, chẳng phải tướng riêng khác, chẳng phải chẳng Như. Vì được tướng Như như vậy nên Phật được gọi là Như Lai”.

(Phẩm Phật Mẫu thứ 48).

Đây là một đoạn kinh nói về Như, hầu như có trong tất cả các Kinh Bát nhã ba la mật. Sau đây chúng ta tìm hiểu vài điểm chính của lời Phật giảng nói trong đoạn kinh.

 

“Tướng sắc thọ tưởng hành thức chính là tướng Như”. Sắc thọ tưởng hành thức là những yếu tố cấu thành thân (sắc) và tâm của một con người, và nói rộng ra, của chúng sanh. Chúng là tướng Như, chúng chính là thực tại tối hậu Như, đó là cái thấy của bậc giác ngộ.

Tướng Như ấy là thế nào? Kinh nói: “Tướng Như là như như chẳng hoại, không có phân biệt, không có tướng, không có nhớ tưởng, không có hý luận, không có đắc”. Tướng Như là thật tướng của tất cả mọi sự, vẫn luôn luôn như vậy, xưa nay và mai sau vẫn như vậy. Thậm chí “tướng bất thiện, pháp thế gian hữu lậu là tướng Như”. Tóm lại thật tướng của cái gọi là sanh tử là tướng Như thanh tịnh.

Thế thì tại sao chúng ta không thấy, không kinh nghiệm được thật tướng Như? Vì suy nghĩ và hành động của chúng ta ngược lại với thật tướng Như. Bằng phân biệt, nhớ tưởng, hý luận, tham sở đắc… chúng ta đã chia cắt, phân mảnh một cách giả tạo thực tại Như, do đó thực tại Như trở thành phân mảnh, có thời gian và không gian ngăn cách. Tướng Như trở thành bất tịnh với chúng ta vì vô minh phân biệt của chúng taVí như một tấm gương trong sáng (tướng Như) trong đó mọi hình bóng đều là tấm gương, đều là tướng Như. Nhưng tâm thức chúng ta đã chia cắt phân mảnh từng hình bóng riêng biệt, xa cách nhau. Hình bóng này xa cách hình bóng khác, đó là không gian và thời gian do chúng ta tự tạo. Và cái “không có tướng, như như chẳng hoại”, trở thành các tướng có sanh diệt.

Phật biết rõ chúng sanh tướng Như và tâm sở khởi lặng, co giãn của chúng sanh là tướng Như, năm uẩn tướng Như, các hành tướng Như, cũng chính là tướng Như của tất cả các pháp”. Chúng sanh là tướng Như, không những thế, tất cả những tâm động và loạn (tâm sở khởi - lặng, co – giãn) của chúng sanh cũng là tướng Như. Như vậy, Đức Phật vẫn ở với chúng sanh để độ thoát cho họ cho đến những đời vị lai nhưng nhờ cái thấy tất cả chúng sanh và tất cả phiền não của họ là tướng Như, nên làm việc với họ mà vẫn giải thoát. Không phải giải thoát là thoát khỏi chúng sanh, không có chúng sanh nữa mà giải thoát là thấy chúng sanh trong thật tướng Như của họ.

Tất cả chúng sanh hữu tình là tướng Như, mà tất cả các pháp, các sự vật, các hiện hữu đều là tướng Như. Tất cả chúng sanhthế giớithời gian không gian là tướng Như. Tướng Như đã biến tất cả chúng sanh, tất cả các cõi thành một cõi thanh tịnhNhất Như.

 

Đó là sáu ba la mật tướng Như, tức là ba mươi bảy phẩm trợ đạo tướng Như, cho đến mười lựcđại từ đại bi tướng Như, tức là Nhất thiết chủng trí tướng Như. Tức là pháp thiện, pháp bất thiện, pháp thế gian, pháp xuất thế gianpháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp quá khứ vị lai hiện tạipháp hữu vipháp vô vi tướng Như.

Tức là quả Tu Đà Hoàn cho đến quả A La HánĐộc Giác Phật, quả Giác ngộ Vô thượng và chư Phật tướng Như. Chư Phật tướng Như đều là tướng Nhất Như, chẳng hai chẳng khác, chẳng tận chẳng hoại. Đây gọi là tướng Như của tất cả các pháp”.

Tướng Như bao trùm và  tất cả các pháp thế gian hữu lậu, tức chúng sanh phiền não và thế giới chúng sanh bất tịnh và xuất thế gian vô lậu, tức các pháp thực hành và các quả thánh cho đến chư Phật. Tướng Như bao trùm và  tất cả quá khứvị laihiện tại. Như thế tướng Như bao trùm và  tất cả không gian và thời gian trong một “tướng Nhất Như, chẳng hai chẳng khác, chẳng tận chẳng hoại”. Đây gọi là tướng Như của tất cả các pháp.

Thế nghĩa là tất cả các pháp vốn là tướng Như, chúng sanh chỉ vì suy nghĩ và hành động sai lầm mà thành ra sanh tử khổ đau. Thế nên qua giai đoạn này chúng ta bắt đầu hiểu thực hành và mục đích của nó là gì: với những khả năng sẳn có của tâm thức là sự tập trung (thiền định) và sự quan sát, tưởng tượng (thiền quán) và hành động, làm việc hàng ngày trong một cái thấy sơ khởi về tướng Như của tất cả các pháp thì đó là con đường thực hành.

 

Phật do Bát nhã ba la mật biết được tướng Như ấy. Vì thế Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay hiển thị tướng thế gian. Chư Phật biết rõ tất cả pháp là tướng Như, chẳng phải tướng riêng khác, chẳng phải chẳng Như. Vì được tướng Như như vậy nên Phật được gọi là Như Lai”.

“Tướng Như hay hiển thị tướng thế gian”: tướng Như là thật tướng của thế gian nên hay hiển thị tướng thế gian. Vị hoàn toàn chứng đắc tướng Như của tất cả pháp là một vị Phật, là Như Lai. Ở đây kinh nói rõ ràng ý nghĩa của Như Lai, là vị chứng đắc rốt ráo tướng Như của chúng sanhthế giới và các bậc giải thoát.

 

Như, tánh Như, chân như (tathata) và như thật (yathabhuta) có nghĩa giống nhau. Trong kinh Đại Bát Nhãphẩm Tự thứ nhất, có đề cập đến “như thật trí” là trí thứ mười một của Đại Bồ Tát như sau:

“Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Thế Tônđại Bồ tát muốn dùng nhất thiết chủng trí để biết tất cả pháp phải tu tập Bát nhã ba la mật thế nào?

….

Cũng đầy đủ mười một trí: Pháp trí, tỷ trí, tha tâm tríthế tríkhổ trítập trídiệt tríđạo trítận trívô sanh trínhư thật trí”.

Như thật trí thì “biết như thật”. Trong phẩm Phật Mẫu (tương đương với phẩm Hiển thị thế gian của kinh Phật Mẫu xuất sinh tam pháp tạng Bát nhã ba la mật đa), có nhiều câu theo dạng “Do Bát nhã ba la mật, Phật như thật biết…”. Sau các đoạn này kinh nói, “Phật như thật biết rõ tướng sắc, thọ, tưởng, hành, thức là tướng Như”.

Như thật trí là trí của Phật, trí ấy như thật biết tất cả các pháp là tướng Như. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1669)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1658)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1838)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1846)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1516)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1681)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2018)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1768)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2329)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1662)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1666)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1622)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2076)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1897)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2038)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1586)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2190)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1553)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1814)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1699)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1765)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1608)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2354)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2065)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2018)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1831)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2169)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1733)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1856)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2084)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1620)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1881)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1870)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2095)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1860)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1713)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1690)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1700)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1811)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2105)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1639)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2194)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1906)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1719)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2286)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1900)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1993)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2188)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2466)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2512)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant