Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhìn Vạn Pháp Đúng Như Chính Nó

26 Tháng Mười Hai 202209:05(Xem: 1922)
Nhìn Vạn Pháp Đúng Như Chính Nó
Nhìn Vạn Pháp Đúng Như Chính Nó

Chân Hiền Tâm


Nhìn Vạn Pháp Đúng Như Chính Nó



Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.

Tôi không nhớ đã đọc câu đó ở đâu hay nghe từ một ai đó. Chỉ biết câu nói đó đã in sâu vào tâm thức tôi như một công án để nghiền ngẫmKinh Pháp Hoa nói về tri kiến Phật. Kinh Niết-bàn nói về Phật tánhKinh luận khác thì nói Niết-bàn, vô sinhtâm chân như v.v… Khá nhiều khái niệm để chúng sinh hình dung cái chỗ mà mình phải chứng nghiệm cho được sau bao năm tu hành. Nhiều như thế nhưng đều cùng nói về một nơi không có chỗ nơi. Nơi mà kinh luận gọi là bảo sở, chẳng phải hóa thành. Điều đó không khó hiểu. Tùy duyên mà tên thành vô số. Chỉ là chúng liên quan gì đến cái gọi là “Nhìn vạn pháp đúng như chính nó” thì tôi vẫn chưa hiểu ra.

Phải mất một thời gian, tôi mới nhận ra được mối liên hệ giữa các khái niệm với lời nói đơn giản kia.

Hóa ra do chúng sinh không ai nhìn vạn pháp đúng như chính nó đang là. Ngay cả bản thân mình đây, mình nhìn còn không đúng nói là nhìn đúng những thứ không phải mình. Thật sự là vậy. Rất ít khi mình nhìn cái gì cho đúng. Đa phần đều nhìn mọi thứ theo phần lăng kính đã được trang bị cho tâm thức mà không hề biết. Khi tới mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý thì đã có sẵn cái lăng kính ấy chi phối, nên khó mà nhìn vạn pháp đúng như chính nó. Thơ ca, tục ngữ nhân gian đã nhấn mạnh đến việc này khá nhiều, chẳng đợi phải đến kinh luận nhà Phật. Người mất búa nhìn đâu cũng thấy người trộm búa, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ v.v… Nó nói lên tầm ảnh hưởng khá lớn của cái gọi là sở tri và phiền não chướng đối với sự nhận thức của con ngườiSở tri là những gì thuộc về phân biệtquan niệmđịnh kiếnPhiền não là những gì thuộc về cảm xúc như vui, buồn v.v… Hầu hết chúng ta đều nhìn thế giới này bằng chính phần sở tri và phiền não đó. Chỉ khi đạt được cái trí của Phật, hoặc từng phần, hoặc toàn phầncon người mới có cái nhìn tương đối chính xác đối với vạn pháp. Mới thấu được thực chất của vạn sự vạn vật ở cõi đời này.

NGẪM SỰ ĐỜI…

Mới thấy chúng sinh nhìn vạn sự vạn vật lầm thì nhiều mà đúng thì không bao nhiêu. 

Bỏ qua mặt nhân duyên hình thành nên pháp

Sai lầm thứ nhất xảy ra khi ta nhận thức vấn đề mà bỏ qua mặt nhân duyên tạo ra vấn đề đó. Nhưng đó lại là cách mà hầu hết mọi người đang ứng dụng cho cái thấy hay cái nghe của mình.

Khổng Tử, người được đời coi như thánh nhân, vẫn không tránh được cái nhìn như thế huống là phàm phu. Chỉ vì bỏ quên mặt nhân duyên tạo ra pháp.

Thời Đông Chu, Khổng Tử dẫn học trò du thuyết sang Tề. Có hai học trò giỏi là Nhan Hồi và Tử Lộ đi theo. Dân chúng lầm than đói khổ, thầy trò Khổng Tử cũng không thoát được cảnh đó. May thay, ngày đầu đến đất Tề, đã có một hào phú biếu thầy trò ít gạo. Khổng Tử phân Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc thổi cơm. Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ.

Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống, thấy Nhan Hồi mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm, rồi cho cơm vào miệng. Chứng kiến cảnh ấy, Khổng Tử thở dài, ngửa mặt lên trời than: “Chao ôi! Học trò giỏi của ta mà lại đi ăn vụng…”. Thật ra, Nhan Hồi không ăn vụng. Chỉ vì khi giở nắp xem cơm, một cơn gió thổi qua, bụi trần rơi xuống làm bẩn lớp cơm trên. Ông quyết định ăn phần cơm bẩn để thầy và các bạn không phải mất thêm phần cơm cho mình.

Đánh giá một sự việc, nếu chỉ thông qua các hiện tướng trước mắt mà quên xét đến mặt nhân duyên tạo ra các hiện tượng đó, tức chỉ thấy cái tướng bỏ cơm vào miệng mà bỏ qua nguyên nhân vì sao có việc đó xảy ra, thì nhầm lẫn xuất hiện. Tuy vậy, đây là loại nhận thức được dùng khá thông dụng trong giới chúng sinh và được ủng hộ khá nhanh, khá mạnh.

Biệt danh Sư thái của tôi, tôi chưa từng biết Sư thái là ai. Chỉ biết khi lũ nhóc gọi tên, thấy tôi ngơ ngác, chúng thích thú cười ồ với nhau, rồi một đứa nhìn tôi nói: “Đó là bà Diệt Tuyệt Sư thái trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung, một bà già khó tính, khó ưa, không cho đồ đệ dính vào chuyện ái dục”. Do chẳng phải là nhân vật cao quý gì nên tôi để chúng được tự do. Chúng chịu đến chùa tu hành là tốt rồi. Vui chút sẽ hứng thú hơn.

Không ngờ gọi hoài chết tên, thay luôn tên đời lẫn tên đạo. Thế là có chuyện xảy ra với loại tri thức thiếu cái nhìn nhân duyên: “Thấy ngạo mạn chưa, dám vỗ ngực xưng mình là Sư…”. Từ một khái niệm bình thường, bỗng được tách đôi cho lòi chữ Sư ra để có cớ lý giải sao cho thuận với suy nghĩ của đương sự.

Những cái nhìn như thế, kinh Lăng-già gọi là tướng vọng tưởng. Là do vin vào các tướng mà xuất hiện các loại tư tưởng không có thật, nên gọi là tướng vọng tưởng.

Để chữa trị bệnh tật này, nhà thiền dạy “Phản quan tự kỷ bổn phận sự”. Quay lại quan sát chính mình là việc bổn phận. Nhìn chỉ là nhìn, nghe chỉ là nghe v.v… Nghe mà thấy tâm khởi thì điều phục tâm, không cho khởi nữa. Tức không theo ngoại cảnh mà khởi tâm tiếp.

Trong trường hợp phải đối diện, cần một sự giải quyết thì phải xét đến nhân duyên đã khiến xảy ra các hiện tượng đó. Trong bất cứ việc gì đều nên đặt câu hỏi nhân duyên nào đã đưa đến hiện tượng này? Phanh được tận nguồn mặt nhân duyên của sự việc thì cái nhìn cái nghe của mình mới tránh được lầm lẫn. Nếu chỉ ngay tướng mà đánh giá thì khó mà không vướng sai lầm. Đó là cách tôi dùng để giải quyết những việc xảy ra quanh mình. Vì dù là một người giỏi giang, vẫn có thể có những phút sai lầm. Và nếu là một tên bê bối, vẫn có những lúc có nhiệt tâm thật sự. Đứa giỏi, khiếm khuyết xảy ra chưa chắc do chính bản thân nó đã sai mà vì có duyên cớ gì đó đã đẩy hắn đến tình trạng đó, như tình trạng của Nhan Hồi. Có thể có việc đó. Nhưng đứa bình thường bê bối thì không hẳn khi nào hắn cũng bê bối, dù xác suất xảy ra việc đó có khả năng nhiều hơn. Vẫn có những lúc do duyên gì đó mà hắn bị đẩy vào hoản cảnh đó, không hẳn do hắn bê bối. Vì thế luôn phải xét đến hoàn cảnh xảy ra sự việc, không thể thấy hay nghe mà tin liền vào cái thấy cái nghe của mình. Phải tìm xem do nhân duyên gì mà xảy ra những việc như thế. Có vậy mới mong nhận định của mình được đúng đắnNhận định có đúng đắn thì việc giải quyết công việc mới được chính xác.

Trong việc tu hành chúng ta có thể phá chấp cho đệ tử bằng mọi cách, không cần lý lẽ. Vì có lý lẽ rồi thì đâu còn gọi là phá chấp. Nhưng trong công việc thì nhất định mọi việc phải được giải quyết tương đối hợp tình hợp lý, tránh tình trạng thiên lệch. Đó là cái nhìn của tôi khi xử lý công việc. Không thì dễ khiến người thối tâm và bỏ cuộc khi họ chưa đủ tâm thức vượt sóng một mình.    

Một lần tôi được báo cáo, một em trong đạo tràng đã lớn tiếng với những người lớn tuổi.

May là hôm ấy, tôi vô tình có mặt ở đó. Nhân duyên con bé lớn tiếng không phải do nó sân hay bực, mà vì nó đứng xa mọi người, nên phải nói lớn lên, hy vọng mọi người cùng nghe thấy. Thứ hai, vì sao phải lên tiếng để trở thành lớn tiếng, là do nó thấy chư vị đã tự ý cho chả và dưa vào bánh mì theo ý mình mà không theo ý của ban tổ chức, khi mọi thứ đã được quý thầy cô sắp xếp vừa đủ và đã có chỉ thị rõ ràng. Thay vì hai chả, hai dưa leo, chư vị tự động cho thành ba chả, ba dưa leo, để Phật tử ăn được ngon. Cho kiểu như thế thì các Phật tử trước ăn ngon, nhưng các Phật tử sau sẽ phải ăn bánh mì không. Vì thế mà phải lên tiếng cho kịp. Giọng nói tuy lớn nhưng vẫn nhỏ nhẹmềm mỏng. Với nhân duyên như thế, con bé không có lỗi. Do ý của chư vị bị cản, bất như ý xảy ra, nên thấy nghe thành trái tai.

Những việc lặt vặt nhỏ nhặt như thế giúp mình tỉnh giác hơn với cái nghe cái thấy của mình khi xử lý công việc. Đã phải xử lý công việc thì nên thấu được nhân duyên tạo ra các hiện tượng đó. Tránh trường hợp thấy liền kết luận, nghe liền tin nhận, rồi theo đó xử lý thì mọi việc khó tránh nhầm lẫn.     
         

Vọng tưởng thái quá       

Sai lầm còn xảy ra khi chúng ta nghĩ hơi quá những gì chúng đang xảy ra.

Thằng con uống rượu, tôi bảo đừng uống nữa, nó trả lời chỉ có khỉ trong rừng mới không uống rượu và ăn chayThiên hạ bảo tôi nó đang chửi xéo bà. Cũng có thể là vậy. Tuy nhiên, trong trường hợp này thì không. Chẳng qua để biện minh cho tật uống rượu của nó nên nó lý luận như thế. Không có tâm gì với bố mẹ.

Một lần họp bàn chuyện công quả phục vụ cho Đại giới đàn. Do việc quá nhiều mà lực lượng của đạo tràng lại mỏng, nhắm không thể phủ sóng hết tất cả, tôi mới đưa ý kiến “Nên nhận vừa đủ công việc mình có thể làm để làm cho đâu ra đó, còn lại nên từ chối, để quý thầy cô biết mà còn lo liệu phân công cho các đạo tràng hoặc thiền viện khác, tránh tình trạng ôm hết rồi làm không được, khiến mọi việc hư hại”. Đó cũng là ý mà Hòa thượng Thường Chiếu thường nhắc đạo tràng trong các buổi sách tấn. Thế nhưng, sau vài ngày, tôi được hỏi ngược “Sao cô can thiệp không cho đạo tràng tham gia công quả Đại giới đàn?”. Không biết do cố ý truyền lệch mà lời nói của tôi thành như thế hay do vọng tưởng quá nhiều mà lời của tôi được diễn lại theo cách như thế? Do gì thì cũng từ ý nghiệp mà ra. Người bị hiểu lầm thì không có gì để mất nếu họ sẵn đủ công đức và bình tâm với việc đó. Nhưng người truyền đi và nghe lại (rồi tin mà khởi tâm) thì coi như tự tạo ác nghiệp cho bản thân. Song kiểu như thế ở thế gian không ít. Đọc sơ vài cái comment trên mạng thì thấy tâm thức người ta vọng tưởng quá nhiều so với việc đang xảy ra. Vọng tưởng rồi thì kế là nói nặng nhẹ. Coi như nặng nhẹ chính ý của mình, chẳng phải sự việc vốn như thế, nhưng ít người nhận ra việc đó.

Cho nên,

Trong Lục thành tựu Phật dạy, mở đầu là “Như thị ngã văn”. Tôi nghe đúng như vậy. Đúng, là Phật nói sao, tôi nghe và nói lại y chang, không thêm không bớt ý nào. Nói vậy, không có nghĩa là không có chuyện thêm thế này hay bớt thế kia trong việc giáo hóa của hàng đệ tử. Việc giảng dạy vẫn có thể không đồng đối với các đệ tử của Phật khi diễn lại ý của  ngài trong việc giáo hóa. Vì là tùy duyênTùy căn cơ của chúng sinh được giáo hóa mà vấn đề được diễn giải có thể thông thoáng hay dễ dãi hơn, miễn tinh thần và hướng đến vẫn không trái với kinh luận, song nhờ đó chúng sinh có thể thâm nhập được ít nhiều những gì Phật dạy. Nhưng đó là trong các bài giảng, còn mở đầu kinh luận thì vẫn “Như thị ngã văn”. Nghe gì nói lại đúng như vậy, không thêm, không bớt.

Để trị tật bệnh vọng tưởng thái quá này, cần thực hành chánh niệm trong mọi oai nghiTâm không tán loạn thì mới mong nghe gì hiểu y nấy. Càng không nên có tâm xiên xẹo hay thương ghét nhiều quá. Đã có tâm xiên xẹo, thương ghét thì dù nghe đúng, diễn lại cũng thành sai. Cái này gọi là biết mà cố phạm.
 

Nhận thức không đúng tầm

Sai lầm còn xuất hiện khi sự nhận thức của mình không ngang tầm đối với vấn đề đang xảy ra.

Do sự không ngang tầm này mà Văn-thù Sư-lợi đã có vô lượng kiếp ở địa ngục trước khi thành đại trí Văn-thù Sư-lợi Bồ-tát.

Sau khi Phật Sư Tử Âm Vương vào Niết-bàn, chánh pháp trụ sáu vạn năm, các cây báu không còn phát ra các pháp âm không, vô tướngvô tácbất sinhbất diệtvô sở hữu v.v. như lúc Phật còn tại thế. Kiếp ấy, tiền thân của Văn-thù Sư-lợi là Thắng Ý. Ông là một vị pháp sư giữ giới thanh tịnhthực hành hai hạnh đầu đà, được Tứ thiền và Tứ vô sắc địnhĐệ tử của ông căn tánh ám độn, nhiều tham cầu, tâm luôn động chuyển, vì phân biệt giữa tịnh và bất tịnh.

Do công phu chỉ ngang tầm Tứ vô sắc định, chưa thâm nhập được âm thanh đà-la-ni, nên với cái nhìn của ông, pháp sư Hỷ Căn trở thành kẻ “dối gạt mọi người đắm trong đường tà. Chỉ dạy người rơi vào tà ác, hư dối. Dám nói dâm, nộ, si và hết thảy pháp tướng đều là tướng vô ngại”. Thực chất Hỷ Căn là hàng Bồ-tát tối thượng, dung nghi chất trựctâm không phế bỏ thế pháp, cũng không phân biệt thiện ácNếu thế pháp hay ác pháp có thể giúp chúng sinh hướng thượng hay trừ bỏ các ác pháp thì Pháp sư chẳng ngại dùng nó. Ông không khen ngợi thiểu dục tri túc, không khen ngợi giới hạnh đầu-đà, chỉ nói về thật tướng thanh tịnh của các pháp. Ông thường dạy đệ tử tất cả pháp tướng, tướng dâm dục, tướng sân nhuế, tướng ngu si tức là thật tướng các pháp, không có ngăn ngại. Rồi dùng phương tiện ấy dạy đệ tử nhập Nhất thiết tríĐệ tử của Hỷ Căn, đa phần thông minh, thích nghe pháp sâu xa, đối với mọi người tâm không sân, không hối, cũng không có hối tiếc, được Vô sinh nhẫn và Vô sinh pháp nhẫn, ở trong thật pháp, tâm như núi Tu-di, không lay động.

Bắt nguồn từ cái nhìn không đúng rồi tạo khẩu nghiệp, Thắng Ý đọa vào địa ngục, thọ khổ vô lượng ngàn ức năm. Ra khỏi địa ngục, sinh trong loài người rồi, thường bị bài báng bảy mươi bốn vạn năm, không nghe được tiếng Phật trong vô lượng kiếp, dầu có nghe được Phật phápxuất gia học đạo, vẫn trở lại xả giới trong sáu vạn ngàn đời, nếu không xả giới thì các căn cũng ám độn[1].

Quả báo của việc không đủ trí tuệ mà cứ hướng ra ngoài phê bình, xúi giục thiên hạ làm chuyện không đâu v.v. kinh hãi như thế, nhưng ít ai biết để mà tránh. Cứ chấp vào cái trí cạn cợt của mình mà tha hồ gõ bàn phím thì quả khổ khó tránh trong tương lai.

Cho nên,

Không phải thứ gì cũng có thể đánh giá trên mặt hình tướng theo thế thường của người đời.

Đông và nhiều là thắng? Không hẳn. Có khi ít và thưa mà vẫn thắng. Vì Phật pháp không y cứ trên số lượng mà y cứ trên tâm lượng. Ít mà tâm lượng rộng lớn, bao dung, không hơn thua, tranh giànhgian dối v.v. thì vẫn thắng. Nếu đông mà được như thế thì đông là thắng. Nhưng nếu đông mà chỉ trụ tâm ở phước báu cúng dường, thiếu định tuệ, tâm danh lợi không hàng phụctranh giành, hơn thua không bỏ v.v. thì đông không phải thắng. Do ý này mà các kinh thường có đoạn kết: “Nếu có thiện nam tín nữ nào thường thọ trìđọc tụng, vì người diễn nói kinh này thì phước báu của người này hơn hẳn người bố thí bảy báu, lượng bằng thế giới trải qua số kiếp vô lượng a-tăng-kỳ”. Lợi ích chúng sinh được căn cứ trên tâm lượng, không căn cứ trên số lượng, nên không thể chỉ y cứ trên số lượng để đánh giá việc lợi ích.

Cũng không thể mang thói thường của người đời ra để đánh giá một sự việc dù có khi nó phù hợp với một phần nào đó của kinh luận.

Ai cũng biết giới đầu trong năm giới của Phật tử tại gia là không sát sinh. Ngay cả với những con vật nhỏ bé, nếu hạn chế được vẫn nên hạn chế. Tuy vậy Tổ Trúc Lâm từng cầm quân đánh giặc. Luận theo đó thì thấy việc làm của Tổ dường như đang khiến người phạm giới do không biết nhẫn. Nhưng đã là Tổ thì nhất định mọi việc làm của ngài đều có nhân duyên và thuận theo nhân duyên. Chẳng phải là việc có thể để chúng sinh phán xét đúng sai.

Giả như đó không phải là Tổ, định tuệ và công hạnh của ngài không phủ khắp từ xưa đến nay, có lẽ ngài đã trở thành bia miệng của người đời như một số việc hiện nay. Một tổ chức lợi dụng màu áo tôn giáo để trục lợi, tuyên truyền xuyên tạc giáo pháp và giới luật của Phật khá rõ ràng, thêm nhiều việc sai trái khác nữa. Một người hiểu rõ về tâm lượng và các loại tập khí của chúng sinh, chúng có tác dụng dẫn dắt con người thế nào v.v. thì không cần điều tra, cũng hiểu hết những việc xảy ra trong đó. Tuy vậy tổ chức ấy đã tồn tại khá lâu vì không ai đụng được vào đó. Cho đến khi có người đứng ra thưa kiện, cơ quan thẩm quyền mới có điều kiện bóc trần sự thật và dẹp đi, thì người có công lại bị công kíchphỉ báng, cho là làm trái với giới luật và những gì kinh luận đã dạy. Ngay cả Phật tử cũng không tránh được cái nhìn đó.

Hoặc như việc chùa giàu hay chùa nghèo, cách độ sinh ra sao v.v. là tùy căn cơ của chúng sinh từng miền, không phải cứ chùa nhỏ mới là chánh, chùa lớn là không chánh, không phải chỉ Tăng Ni không nhận tiền cúng dường mới là chánh mà nhận tiền cúng dường là không chánh. Chánh hay tà không nằm ở chùa to Phật lớn hay chùa bé Phật nhỏ, cũng không nằm ở việc có nhận cúng dường hay không v.v. Vấn đề là khi chư vị xuất hiện, dân chúng nơi đó có an cư lạc nghiệp không, thiện nghiệp có được tăng trưởng không, xã hội có ổn định không, tệ nạn, trộm cướp, giết người v.v. có giảm thiểu không. Có là thành công rồi. Người ta cúng dường nhiều mà chịu thuận theo quý Tăng Ni tạo thiện nghiệpgiữ giới, khiến xã hội an bình là được. Còn giàu nghèo hay phương cách độ sinh thế nào là tùy căn cơ chúng sinh và hạnh nguyện của chư vị. Kinh Niết-bàn nói khá rõ về loại phương tiện độ sinh này. Do trí không đủ nên nhìn không thấu rồi thành chuyện thị phi

Tất cả là do biết một mà không biết hai. Chỉ mới hiểu được phần giáo pháp đối trị mà Đức Phật đã dạy, chưa thấu được phần giáo điển thâm sâu mà Phật muốn truyền trao, như Tổ Nhân Tông được Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy “Giữ giới cùng nhẫn nhục/ Chiêu tội chẳng chiêu phước/ Muốn biết không tội phước/ Chẳng giữ giới nhẫn nhục…”. Phần giáo pháp mà sau khi nói ra với Tổ Trần Nhân Tông, Tuệ Sĩ dặn “Chớ nói cho người không ra gì biết”[2]. Do thâm nhập được phần giáo pháp thâm sâu này mà mọi việc làm của Tổ sư đều thành diệu dụng với chúng sinh. Không đánh cũng là dụng. Đánh cũng là dụng. Không kiện cũng là dụng. Kiện cũng là dụng v.v. Dụng pháp nếu đúng duyên, lợi ích được cho người, thì tất cả pháp đều là Phật pháp. Cho nên, trong nhà Phật thường có các câu “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan. Lìa kinh một chữ tức đồng ma thuyết”, hoặc “Y pháp bất y nhân” v.v…    

Để đối trị những sai lầm tương tợ thì những gì không phải là sở trường hiểu biết của mình, tốt nhất không nên khởi tâmPhật giáo rộng lớn thâm sâu lắm! Phần thô của Phật giáo còn chưa ứng dụng được, lấy gì mà thâm nhập được phần giáo pháp tế để không mắc sai lầm khi chạm cảnh khởi tâm? Không nên làm anh hùng bàn phím khi những hiểu biết của mình về Đạo giáo còn cạn cợt. Phản quan tự kỷ cho an toànHiện tại an bình mà tương lai không phải nhận quả khổ. Còn mọi thứ ở đời này đều có nhân duyên và nhân quả. Những gì hiện tại người ta đang nhận được, là do nhân duyên đã tạo từ quá khứ. Những gì hiện tại người ta đang tạo ra, nhất định có quả báo khi đủ duyên. Không đợi mình phải can thiệp mà can thiệp sao được với tâm trí thấp kém của mình, chỉ gây thêm hoang mang cho người khác. Việc gây hoang mang đó sẽ có cái quả không hay trong tương lai khi đủ duyên.     

Thấy mọi thứ đều thật

Sai lầm nền tảng nhất chính là thấy các pháp đều thật, trong khi Phật bảo tánh các pháp là không, thảy đều duy tâm sở hiện, như ngủ rồi mộng mà thấy mọi cảnh giới, không thứ gì có chất thật. Nhưng hầu hết chúng sinh không ai thấy được điều đó. Đều thấy mọi thứ là thật. Không thấy tất cả đều từ tâm hiện. Đây cũng chính là nền tảng khiến mọi loại vọng tưởng nói trên sinh khởiVọng tưởng khởi rồi thì khẩu nghiệp và thân nghiệp khởi theo.

Nếu rõ được mọi thứ không thật, sẽ không có gì bận tâm. Tâm không thật, thân không thậtthế giới chung quanh cũng không thật thì chẳng còn đua tranh, hơn thua, khiến sinh khởi các bất thiện nghiệp. Nhưng vì thấy mọi thứ là thật nên vọng tưởng sinh khởi. Trên cái không thật lại sinh khởi nhiều cái không thật khác. Tham, sân, si theo đó mà huân tập. Đủ lực liền biến thành cảnh giới như thật như hiện nay.

Để đối trị việc này cần phải có sự tu tậpphát Bồ-đề tâm, hành Bồ-tát đạo. Thường xuyên quán các pháp không có thật, đều từ tâm mình hiện ra. Nói từ tâm hiện ra là muốn người biết cội nguồn từ đâu mà có muôn sự muôn vật. Đều từ tâm vọng tưởng nơi mỗi người xuất ra. Hạnh phúc hay bất hạnh v.v. đều bắt nguồn từ thân, khẩu, ý nghiệp của mình, chẳng phải từ người mà có, như chúng ta vẫn lầm tưởng bao lâu nay. Mọi ý tưởng và hành vi của mình đều được huân tập, lưu giữ trong tạng thức, đủ duyên thì hiện ra thân căn và thế giới quanh mình như cách ngủ rồi mộng. Do vô minh mà chúng ta có loại trường mộng như hiện nay.      
  

TRỰC NHẬN TÁNH KHÔNG CỦA VẠN PHÁP

Cho nên

Tu hành cuối cùng là để trực nhận cho được phần tánh không này của vạn pháp. Cũng chính là phần Phật tánh sẵn đủ trong mỗi chúng sinh, chỉ do vô minh mà không thể sống được với Phật tánh của mình. Sống được với Phật tánh thì mọi cái nhìn đều đâu ra đó. Không sống được với Phật tánh, tức bị vô minh dẫn chạy thì lầm từ việc này sang việc kia, khổ từ kiếp này sang kiếp khác. Vì tuy mọi thứ không thật nhưng một khi đã chấp thì mọi thứ đều thành thật. Thân thật, tâm thật, khổ thật, sướng thật  v.v…

Lăng Nghiêm nói về chủ và khách, về vọng và chân, Lăng-già nói về mười một loại vọng tưởng, thảy đều muốn giúp người tu nhận ra thứ gì là vọng, thứ gì là chân để biết đường mà phân ranh, chọn lựa. Bỏ vọng về chân hoặc ngay vọng nhập chân, không để vọng kéo lôi nữa. Từ chỗ hiểu đến chỗ ngộ nhập là một quá trình, gọi quá trình đó là tu hànhThể nhập được rồi thì hết thảy đều nhìn các pháp đúng như chính nó.

                         


 

[1] Luận Đại trí độ tập 1. HT Thích Thiện Siêu dịch và chú. 

[2] Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục giảng giải – HT Thích Thanh Từ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1352)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1319)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1273)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1470)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1550)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1594)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1481)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1430)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1232)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1369)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1340)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1425)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1443)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1521)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1380)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1480)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1386)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1348)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1414)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1362)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1541)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1783)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1477)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1783)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1378)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1293)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1514)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1367)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1437)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1588)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1807)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1828)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1639)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1830)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1529)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1490)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 2013)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1590)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1537)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1484)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1459)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1537)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1402)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1683)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1661)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1512)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 1530)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1397)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant