Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Định Nghĩa Cõi Tịnh Độ Theo Các Kinh Và Tiến Trình Lịch Sử Kết Tập Kinh A Di Đà

28 Tháng Mười Hai 202209:26(Xem: 1512)
Định Nghĩa Cõi Tịnh Độ Theo Các Kinh Và Tiến Trình Lịch Sử Kết Tập Kinh A Di Đà
Định Nghĩa Cõi Tịnh Độ Theo Các Kinh
Và Tiến Trình Lịch Sử Kết Tập Kinh A Di Đà

Thích Nữ
 Hạnh Liên

sen 3


Tóm tắt
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độ và căn cơ của chúng sinh tiếp nhận, tất cả đều nhằm mục đích để người tu học đạt đạo giải thoát. Sự phát triển của pháp môn Tịnh độ có bề dày lịch sử hàng nghìn năm và rất được Phật tử mến chuộng. Bài viết sau đây trình bày các kiến giải về Tịnh độ và tiến trình lịch sử hình thành Kinh A Di Đà cũng như phương pháp tu tập để được vãng sanh về Cực Lạc.

DẪN NHẬP
Cuộc sống của tất cả chúng sanh luôn có những thử thách và nhiều khổ đau, nhất là đối với con ngườiVì vậy, đã xuất hiện những con người vĩ đại, tự mình đi tìm lối thoát xa rời khổ đau cho mình và người. Đó cũng là nguyên nhân hình thành nên các tôn giáo trên thế giới, trong đó có Phật giáoMục đích của các tôn giáo là hướng con người đến chân thiện mỹ trong đời sống hiện tại và sau khi chết đi. Người xưa từng nói: “Như nhân ẩm thuỷ, noãn lãnh tự tri”, nghĩa là người thật sự uống nước mới biết được nóng lạnh của nó và chỉ khi nào thực hành tinh chuyên theo phương pháp tu hành của một tôn giáo thì người đó mới đạt được mục đích, cảm nhận sự giải thoát về tâm linh, biết được giá trị con người. Người chuyên tu về pháp môn Tịnh độ cũng vậy, họ có niềm tin sau khi chết sẽ được vãng sanh về cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà. Tất nhiên muốn sanh về những cõi đó, cần phải thực hiện các điều kiện tất yếu. 

KHÁI NIỆM VỀ TỊNH ĐỘ QUA CÁC KINH

Trong Phật giáoTịnh độ có nhiều khía cạnh giải thích khác nhau nhưng Tịnh độ của cõi Phật A Di Đà được nhiều người biết đến hơn, đó là một cõi nước trang nghiêm thanh tịnh ở phương tây tên Cực lạc của Đức Phật A Di ĐàChúng sanh trong cõi đó không có sự khổ mà chỉ an vui với y báo và chánh báo trang nghiêm thù thắng. Ngài Thân Loan đã nói về cõi Tịnh độ rằng: “Tịnh độ là quốc độ của Phật A Di Đàmột thế giới hoàn toàn lìa sự hư vọng, một nơi chân thật” [1].

Trong tác phẩm Tịnh độ luận, ngài Đàm Loan chú thích: “Vì ngã dục, thương ghét vô trí và phiền não tác độngchúng ta, kẻ phàm phu biến thế giới này trở thành uế độ. Ngược lại, Bồ tát xem tất cả đều không sống đúng ý nghĩa của sự sống, không phân biệt và nguyện tịnh hoá phiền nãoxây dựng cảnh giới niết bàn thật sự như thế giới an lạc. Đấy chính là thế giới chân thật (Tịnh độ)” [2].

Trong Phật giáoTịnh độ có nhiều khía cạnh giải thích khác nhau nhưng Tịnh độ của cõi Phật A Di Đà được nhiều người biết đến hơn, đó là một cõi nước trang nghiêm thanh tịnh ở phương tây tên Cực lạc của Đức Phật A Di ĐàChúng sanh trong cõi đó không có sự khổ mà chỉ an vui với y báo và chánh báo trang nghiêm thù thắng. Ngài Thân Loan đã nói về cõi Tịnh độ rằng: “Tịnh độ là quốc độ của Phật A Di Đàmột thế giới hoàn toàn lìa sự hư vọng, một nơi chân thật”. (Ảnh: sưu tầm)

Trong Kinh Duy Ma Cật, khái niệm Tịnh độ được định nghĩa như là thâm tâm, tức là tâm bồ đề của Bồ tátTịnh độ còn được đẳng thức hoá với các pháp tu mang hạnh nguyện Bồ tát như: bố thítrì giớikham nhẫntinh tấnthiền định và trí tuệ…

Kinh A Di Đà có nói: “Từ thế giới Ta bà này hướng về phía chính tây trải qua mười muôn ức cõi Phật, riêng có một thế giới, gọi là Cực lạc” [3]. Như vậy, Tịnh độ không phải là một cõi nước thuộc về vật chất, không phải là nơi đến của người đã giải thoát mà chỉ là nơi dừng chân của tâm, là duy tâm Tịnh độHay nói cách khác, khi tâm con người dừng lại hết mọi vọng niệmvọng tưởngtrạng thái của tâm lúc đó chính là Tịnh độ, là một cõi lòng trong sạch và thanh tịnh, không còn ô nhiễm bởi các thứ phiền não, như trong tác phẩm Cư trần lạc đạo phú, Phật hoàng Trần Nhân Tông có nói: “Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương/ Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc” [4]. Tịnh độ không phải là nơi con người hoàn toàn giải thoát mới đến được. Tịnh độ là an trú vào nơi chánh niệmchánh định, khi tâm tịnh thì quốc độ tịnh, tâm ô nhiễm thì quốc độ ô nhiễmKinh A Di Đà nói rằng: “Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực lạc” [5].

Qua các khái niệm trên, chúng ta có thể kết luậnTịnh độ là nơi mà con người ở đó an vui và giải thoát nhưng phải gia công tu tập mới có thể đến đó. Pháp môn niệm Phật là phương tiện tùy theo căn cơ mỗi người để thực hành giúp tâm thanh tịnh và muốn đến được cõi Tịnh độ hay không là do ở nơi mỗi người. 

TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH LỊCH SỬ

Kinh A Di Đà

Kinh A Di Đà là bản kinh thuộc tư tưởng của Đại thừa, một quyển, Đại 12, Bảo Tích Bộ HĐTK 366 và 367, mô tả phẩm chất bản thân Phật A Di Đà và thế giới cực lạc cùng sự tán thán của các Đức Phật ở các thế giới khác [6]. Kinh điển Đại thừa ra đời khi Phật giáo có sự thay đổi để tồn tại trong thời kì ngoại đạo phát triển mạnh về tín ngưỡng thờ cúnglễ bái. Những năm đầu kỷ nguyên tây lịch, động lực thúc đẩy sự hưng khởi Đại thừa chính là tư tưởng Bát nhã

Kinh Bát Nhã được kết tập tại nam Ấn Độ, đây là tư tưởng chủ về trí. Trong khi đó ở bắc Ấn Độ lại xuất hiện tư tưởng cầu tha lực để vãng sanh về cõi Tịnh độ và là tư tưởng chủ về tình. Theo Pháp sư Ấn ThuậnHiếp Tôn giả là người tin vào Kinh Bát Nhã, còn Bồ tát Mã Minh là người có liên quan đến đức tin Tịnh độ.

Đối với Phật giáolòng tin cũng quan trọng như vậy, trong kinh Hoa NghiêmĐức Phật dạy: “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu, trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn”. Ngài nói lòng tin chính là mẹ sinh ra các công đức, làm cho các căn lành sinh trưởng và phát triển. Tất cả chúng đệ tử Đức Phật đều tự mình xây dựng một niềm tin chắc chắn đối với Phật, ai muốn sau này về cõi nước của Đức Phật nào thì phát nguyện tin theo và thực hành lời dạy của Đức Phật đó. Ví như một người muốn sau này sanh về cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà cần hội đủ ba điều kiện là tín, hạnh và nguyện. (Ảnh: sưu tầm)

Tư tưởng Di Đà Tịnh độ ở phương Tây có thể bắt nguồn từ hai yếu tố [7]: Thứ nhất là trong các kinh điển A-hàm nói về bản hoài của Đức Phật muốn cứu tế chúng sanh. Thuyết cầu nguyện vãng sanh về các cõi Đao Suất của Phật Di lặc hay Diệu Hỷ của Phật A Súc và Cực Lạc của Phật A Di ĐàCõi Tịnh độ của một Đức Phật chính do bản nguyện lực mà thành. Như vậy, cõi Tịnh độ ở Tây phương được hình thành là do bản nguyện của Phật A Di Đà.

Thứ hai là sự kích phát từ tư tưởng ngoại lai. Sự cầu cứu từ tha lực vốn xuất hiện sớm trong thánh điển nguyên thuỷ của Phật giáo nhưng do chưa đủ duyên nên chưa được coi trọng, đến khi tiếp xúc với tín ngưỡng tôn giáo của các dân tộc Hy Lạp và Ba Tư ở bắc Ấn mới xuất hiện các việc cúng bái, cầu nguyện sự cứu tế từ tha lựcCho đến thời của Bồ tát Mã Minhtư tưởng Tịnh độ Di Đà lan toả khắp nhân gian. Ngài Chi Lâu Ca Sấm đã dịch Kinh Bát Nhã Tam Muội, nội dung liên quan đến loại thiền đưa đến việc quán tưởng Phật và có liên hệ mật thiết vào niềm tin Phật A Di ĐàKinh A Di Đà là do truyền khẩu truyền tụng lâu ngày mới được kết tập lại thành.

Đến thời ngài Long Thọdựa vào nội dung dẫn dụng của Thập Trụ Tỳ Bà Sa luậnNhị Thập Tứ Nguyện Kinh được ngài Chi Khiêm dịch ra Hán văn thành A Di Đà Kinh hoặc Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh. Ngài Khương Tăng Hội dịch thành Vô Lượng Thọ Kinh với 48 nguyện [8]. Kinh điển Di Đà còn có các bản dịch khác như: Đại Bảo Tích KinhĐại A Di Đà KinhĐại Vô Lượng Thọ KinhVô Lượng Thọ Như Lai Hội…

Như vậy, Kinh A Di Đà có thể nói là sự phát triển của tư tưởng nguyên thuỷ, vốn xuất phát từ kinh điển nguyên thuỷ Phật giáo tại Ấn Độ và có sự tác động của các tín ngưỡng tôn giáo ngoại laiTha lực của Tịnh độ không phải là hình ảnh một người khác đưa tay để cứu vớt chúng ta mà tha lực chính là nương vào cái bên ngoài như: quán chiếu hình ảnh Đức Phật hay nương vào câu niệm Phật… để an trú tâm mình. Khi tâm được an trú thì các phiền não dần lắng xuống, những tội lỗi không có nơi để tái phạm, tâm lúc đó là Tịnh độ, nghĩa là một cõi thanh tịnh của tâm. Và khi chúng ta quán chiếu hình tượng hay niệm danh hiệu Phật A Di Đà để tâm thanh tịnh, tâm đó chính là cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà

Hay nói cách khác, nếu chúng ta nương vào pháp môn Tịnh độ của một vị Phật nào thì lúc đạt đến tâm thanh tịnh tức là Tịnh độ của cõi Phật đó vậy. Do đó, tha lực hay tự lực chỉ là biểu hiện của một quá trình tự ý thứctự giác ngộ của mỗi cá nhân. Ta muốn vươn tới thì phải có mục đích để vươn tới và mục đích đó có khả năng thu hút nỗ lực vươn tới của chúng taCõi Tịnh độ của Phật A Di Đà giống như mục đích của chúng ta, đây là điều kiện để chúng ta nỗ lực thực hiện quán chiếu hay niệm danh hiệu Ngài.

Phật A Di Đà được dịch là Vô Lượng Thọ hay Vô Lượng Quang, nghĩa là Ngài có tuổi thọ vô lượng và ánh sáng chiếu cùng khắp. Ngài được xem như một đối tượng của loại thiền quán tưởng (Kinh Bát Chu Tam Muội) và như là hiện thân của lòng từ bi (Kinh Đại Vô Lượng Thọ), cuối cùng được kết hợp vào trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ PhậtTuy nhiên, trong Kinh Bình Đẳng GiácĐức Phật A Di Đà sẽ không nhập Niết-bàn nhưng trong Kinh Đại A Di Đà lại cho rằng thọ mạng của Đức Phật A Di Đà thực sự có hạn, sau khi Ngài nhập Niết-bàn thì Bồ tát Quán Thế Âm sẽ kế thừa [9].

Như vậy, đối chiếu quá trình hình thành của hai bản kinhchúng ta thấy, Kinh A Di Đà là bản kinh lấy tư tưởng từ tư tưởng nguyên thuỷ và phát triển theo tư tưởng của Phật giáo đại thừa, là kinh điển mang tính biểu pháp, mục đích làm cho tâm con người được an tịnh. Từ đây, chúng ta có thể nói cõi Tịnh độ Phật A Di Đà là duy tâm Tịnh độ chứ không phải là một cõi vật chất nào khác trong vũ trụ này. 

VẤN ĐỀ VỀ NIỀM TIN

Điều kiện để trở thành một tôn giáo là cần có Giáo chủgiáo lý và tín đồ. Trong đó, giáo lý khá quan trọng, vì đó là những điều cốt yếu mà bậc Giáo chủ muốn truyền lại cho tín đồ của mình. Tín đồ phát khởi lòng tin và thực hành theo đúng lời dạy đó sẽ đạt được mục đích cuối cùng của đạo. Qua đó, chúng ta thấy để đi theo một tôn giáo nào đó, lòng tin là điều quan trọng. Đối với Phật giáolòng tin cũng quan trọng như vậy, trong Kinh Hoa NghiêmĐức Phật dạy: “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu, trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn”. Ngài nói lòng tin chính là mẹ sinh ra các công đức, làm cho các căn lành sinh trưởng và phát triển. Tất cả chúng đệ tử Đức Phật đều tự mình xây dựng một niềm tin chắc chắn đối với Phật, ai muốn sau này về cõi nước của Đức Phật nào thì phát nguyện tin theo và thực hành lời dạy của Đức Phật đó. Ví như một người muốn sau này sanh về cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà cần hội đủ ba điều kiện là tín, hạnh và nguyện. 

Trong đó, niềm tin đứng đầu, tin rằng cõi Phật đó trang nghiêm thanh tịnh, tin bản thân tu tập đủ khả năng để sanh về cõi đó. Như vậy, niềm tin là liều thuốc về tinh thần. Khi chúng ta có đủ sức mạnh về tinh thần thì làm gì cũng sẽ đưa đến kết quả tốt. Tuy nhiênlòng tin cần có trí tuệ, nghĩa là lòng tin cần đặt đúng chỗ, tin đúng đối tượng, tin về những gì thật sự có ích, niềm tin chắc thật không mù quáng, như Đức Phật dạy: “Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảngthiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu” [10]. Nếu lòng tin không có sự suy xét rõ ràng sẽ dễ bị rơi vào mê tín. Đối với Phật tửniềm tin đó gọi là chánh tín, vì Phật pháp là con đường đem lại lợi ích cho tất cả chúng sanh.    

Nhưng một niềm tin thuần túy chưa đủ để đưa Phật tử ra khỏi khổ đau, cũng không dẫn đến chân hạnh phúc mà cần phải kết hợpxây dựng trên nền tảng của trí tuệtu tập và thực nghiệm thì con người mới có thể tự giải thoát khỏi nghiệp lực và khổ đau. Tin Phật cần phải hiểu được những lời dạy của Ngài, từ đó áp dụng thực hành nhằm mang lại an vui, hạnh phúc cho mình và người. Nếu Phật tử chỉ nghe người khác nói về Đức Phật và phát khởi lòng tin thôi thì vẫn chưa đủ mà phải chứng thực. Bởi vì Ngài dạy: “Tin ta mà không hiểu ta tức là phỉ báng ta”. Như có người tin hoàn toàn vào Đức Phật nhưng lại có người khác mượn hình ảnh Ngài để xuyên tạc những lời Ngài dạy, mà người này vẫn như vậy tin theo, rằng đó là lời Phật dạy, thì người đó chính là chưa hiểu được ý của Đức Phật, chưa hiểu được Phật pháp là gì, lòng tin đó ngược lại bôi nhọ Phật pháp. Cũng vậy, lòng tin đối với Phật A Di Đà và cõi Cực Lạc cần phải đặt trên nền tảng của trí tuệKinh A Di Đà có nội dung tư tưởng lấy trong kinh điển nguyên thuỷ, cho nên cũng là một phương pháp tu tậphành trì. Và nếu đúng với tinh thần ấy mà thực hành, chắc hẳn sẽ có được kết quả tốt.

Cõi Tịnh độ là sự mong muốn, ao ước của con người về một thế giới tốt đẹp hơn, nơi mà con người bớt đi mọi khổ đau thay vào đó là sự an vui, hạnh phúc. Đây không chỉ là ước muốn của con người nói riêng và tất cả chúng sanh nói chung mà còn là mục đích của những bậc Giáo chủ các tôn giáo nhằm tạo ra cho con người một con đường giải thoátxa lìa mọi đau khổ thế gian.

Ở một khía cạnh khác, trái với niềm tin ở thế giới bên ngoài, trong Kinh Tương Ưng Bộ I, Đức Phật còn dạy: “Hãy sống tự mình làm hòn đảo cho chính mình… hãy nương tựa nơi chính mình, không nương tựa một ai khác. Hãy lấy pháp làm hòn đảo, hãy lấy pháp làm chỗ nương tựa” [11]. Và trong Kinh Tăng Chi Bộ I, Đức Phật cũng dạy: “Này Kālāma, chớ có tin vì nghe báo cáo… vì nghe truyền thuyết… vì được kinh điển truyền tụng… vì lí luận suy diễn… vì diễn giải tương tự… vì phù hợp với định kiến… vì xuất phát từ nơi ưu quyền… vì vị Sa môn là bậc Đạo sư của mình… Thời này các Kālāma, hãy từ bỏ chúng” [12].

Điều này chứng tỏ đạo Phật đề cao tính nỗ lực cá nhâncon người có được giải thoát hay không, có được giác ngộ hay ra khỏi luân hồi hay không là nhờ ở chính bản thânVì vậy, ngoài niềm tin đối với Đức Phật và giáo pháp mà Ngài truyền trao còn phải tin vào bản thân, chính bản thân chúng ta sẽ là người tiếp nhận và thực hành giáo pháp Đức Phật. Và chính mình sẽ là người đạt được kết quả tu tập do bản thân mang lại chứ không phải ai thay thế được. Như vậy, niềm tin rất cần thiết và quan trọng trong tôn giáo. Đó cũng là con đường để chúng ta đi đến kết quả của sự tu tập.

KẾT LUẬN

Tóm lạicõi Tịnh độ là sự mong muốn, ao ước của con người về một thế giới tốt đẹp hơn, nơi mà con người bớt đi mọi khổ đau thay vào đó là sự an vui, hạnh phúc. Đây không chỉ là ước muốn của con người nói riêng và tất cả chúng sanh nói chung mà còn là mục đích của những bậc giáo chủ các tôn giáo nhằm tạo ra cho con người một con đường giải thoátxa lìa mọi đau khổ thế gian. Cũng chính nhờ sự nhìn nhận riêng của mỗi người nên cõi Tịnh độ được diễn đạt theo hai hướng: Một hướng là cầu sự an lạc của nội tâm, hướng đến sự giác ngộ của tự thân, đề cao tinh thần tự giác; một hướng là cầu mong sự giúp đỡ từ bên ngoài và đặt trọn niềm tin vào nơi đó. Như vậy, sự mong cầu khác nhau đều do sự nhìn nhận, suy nghĩ của con người, vì những cõi an lạc đó đều là mục đích cho con người hướng đến và niềm tin chính là cánh cổng mở ra con đường đi đến mục tiêu.  

Tất cả đều là phương tiện mở ra để dụ dẫn con người có một cuộc sống an lạc ngay trong hiện tại, chỉ là chúng ta có chọn đúng con đường hay không mà thôi. Và để đạt được mục đích đó, ngoài việc đặt trọn niềm tin và nỗ lực của thực hành theo Chánh pháp của Đức Phật, thì trong hiện tại chúng ta cũng phải sống tốt, đem lại bình an cho mình và người. Nếu trong hiện tạichúng ta đã thành tựu được vậy thì tương lai chắc chắn sẽ sinh về quốc độ chư Phật như mong muốn. Đức Phật dạy các pháp như ngón tay chỉ mặt trăng, khi các pháp đã được thuần thiện, mục đích cuối cùng của con người không còn phân biệt mà sẽ trở thành một nơi chung cho tất cả. Nhân quả thế gian là chung cho tất cả chúng sanh, khi một người nào tạo nhân thiện thì sẽ có được kết quả thiện. Do đó, quan trọng nhất vẫn là sự thực hành của mỗi cá nhânđạt được mục đích giải thoát hay không đều do chính bản thân mình. Một người khi tâm thanh tịnh thì không còn ham muốn phải sanh về cõi nào khác mà chính nơi người đó là cõi Tịnh độ rộng lớn, có thể dung chứa tất cả và giải thoát mọi hạn cuộc trên thế gian này.

 

Chú thích:

Tỳ kheo Ni Thích Nữ Hạnh Liên, thế danh Phạm Thị Bích Phượng – Thạc sĩ Tâm lý học, hiện là Cử nhân Phật học chuyên ngành Triết học Phật giáo.

[1] Kakehashi Jitsuen, Thích Như Điển (dịch, 2009), Tịnh độ tông Nhật Bản, Nxb. Phương Đông, tr.157.

[2] Kakehashi Jitsuen, Thích Như Điển (dịch, 2009), Sđd, tr.158.

[3] Huỳnh Trí Hải, HT. Thích Trí Minh (dịch), Kinh A Di Đà giải thích.

[4] https://thuvienhoasen.org/a14631/tinh-do-la-long-trong-sach-di-da-la-tinh-sang-soi.

[5] https://phatphap.wordpress.com/2007/12/16/kinh-a-di-da-dich-nghia/.

[6] Từ điển Bách khoa Phật giáo Việt Nam, tr.300.

[7] Pháp sư Thánh Nghiêm (2008), Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, tr.326-327.

[8] Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, tr.347.

[9] Hirakawa Akira (2018), Lịch sử Phật giáo Ấn Độ từ Đức Phật Thích Ca đến Đại thừa sơ kỳ, tr.462.

[10] HT. Thích Minh Châu (dịch, 2018), Kinh Tăng Chi Bộ I, Chương III, Các lễ Uposatha, Nxb. Tôn giáo, tr.236.

[11] HT. Thích Minh Châu (dịch, 2017), Kinh Tương Ưng Bộ I, Phẩm Tự Mình Làm Hòn Đảo, Nxb. Tôn giáo, tr.673.

[12] HT. Thích Minh Châu (dịch, 2018), Kinh Tăng Chi Bộ I, Chương III, Các vị ở Kesaputta, Nxb. Tôn giáo, tr.219.

 

Tài liệu tham khảo:

1. HT. Thích Minh Châu (dịch, 2017), Kinh Tương Ưng Bộ I, Phẩm Tự Mình Làm Hòn Đảo, Nxb. Tôn giáo.

2. HT. Thích Minh Châu (dịch, 2018), Kinh Tăng Chi Bộ I, Chương III, Các vị ở Kesaputta, Nxb. Tôn giáo.

3. Huỳnh Trí HảiKinh A Di Đà giải thích, HT Thích Trí Minh (dịch).

4. Kakehashi Jitsuen, Tịnh độ tông Nhật Bản, Thích Như Điển (dịch), (2009),

Nxb Phương Đông.

5. Lê Mạnh Thát, Từ Điển Bách Khoa Phật giáo Việt Nam, tập II, (2005).

6. Pháp sư Thánh Nghiêm (2008), Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, Nxb. Phương Đông.

7. Hirakawa Akira (2018), Lịch sử Phật giáo Ấn Độ từ Đức Phật Thích Ca đến Đại thừa sơ kỳ, Nxb. Văn hoá – Văn nghệ.

8. https://thuvienhoasen.org/a14631/tinh-do-la-long-trong-sach-di-da-la-tinhsang-soi. 

9. https://phatphap.wordpress.com/2007/12/16/kinh-a-di-da-dich-nghia/.
(Trích từ: Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 403 ngày 15-12-2022)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 51)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 46)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 63)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 87)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 171)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 199)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 215)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 195)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 223)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 261)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 231)
Chết an lành là mong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 227)
Pháp giới là vũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 430)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 256)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 366)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 298)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 287)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 265)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 372)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 370)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 486)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 360)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 621)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 388)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 421)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 581)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 490)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 412)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 717)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 459)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 518)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 461)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 461)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 477)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 480)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 405)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 536)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 871)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 896)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 735)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1081)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 546)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 515)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 595)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 617)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 593)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 587)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 755)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 653)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 796)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant