Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tu Tập Trong Lành Và Đơn Giản

06 Tháng Giêng 202310:55(Xem: 1730)
Tu Tập Trong Lành Và Đơn Giản

                                                                        Tu Tập Trong Lành Và Đơn Giản

                                                                                            Cao Huy Hóa

chu tieu 8

Thực hành
 Tịnh độ là đơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linhTịnh độ phù hợp với những người có cuộc sống bận rộn, phù hợp với những người đang đấu tranh với những thói quen tự hủy hoại mình hoặc thất vọng, tức giận, buồn bã, rối loạn, cũng như đối với những người tràn đầy niềm vui trong cuộc sống. Tịnh độ kết nối chúng ta với vẻ đẹp trên thế giới, đầy nghệ thuật và thơ ca, nuôi dưỡng lòng biết ơn đối với tất cả những gì chúng ta nhận được và khôi phục niềm tin căn bản.

Nguồn gốc của pháp môn Tịnh độ nằm trong những lời dạy của Đức Phật Thích Ca dành cho cư sĩ và lòng sùng kính mà mọi người hướng về Ngài trong và sau cuộc đời của Ngài. Những người phổ biến rộng rãi cách tu tập này – Shan Tao (Thiện Đạo Đại sư) ở Trung Quốc thế kỷ thứ VII và Honen Shonin (Pháp Nhiên Đại sư) ở Nhật Bản thế kỷ XII, cùng những vị thầy, môn đồ và cộng sự – đó là những người sống đời sống Phật giáo mẫu mực và tiếp thu toàn bộ giáo lý Phật giáo, nhưng đã chọn cách thực hành này để mọi người bình thường có thể tiếp cận được, bất kể hoàn cảnh, phẩm hạnh cá nhân, giới tính, địa vị hay lịch sử của họ là gì. Những đạo sư này đã sống trong thời kỳ đen tối và mang đến hy vọng cho nhân gian.

Honen Shonin chứng kiến cha mình bị giết trong cuộc nội chiến. Ông lo lắng cho số phận của mẹ mình, một người Triều Tiên nhập cư. Ông đã bị sốc bởi những gì nhìn thấy về sự tàn bạo của con người trong cuộc nổi dậy Hogen (1156). Ông hiểu rằng nhiều người bị mắc kẹt trong những điều kiện xã hội áp bức mà họ không thể làm được gì cả. Ông đã thiết lập môn phái niệm Phật (nembutsu), niệm danh hiệu của Đức Phật, như một thực hành của tình liên đới và niềm an ủi cho những người bị áp bức.

Những câu hỏi trọng tâm của Phật giáo Tịnh độ là từ xa xưa và phổ quát: Làm thế nào chúng ta có thể đặt mình trong mối quan hệ với tình thương vô điều kiện và sống một cuộc sống cởi mở, tự nhiêntừ bi và đầy tin tưởng, với giả thiết rằng, chúng ta chỉ là những con người bình thường đang sống trong một thế giới, như Đức Phật đã dạy, bùng cháy bởi tham, sân, si? Bản thân chúng ta không miễn nhiễm: Chúng ta là một phần của thế giới này. Chúng ta không thể vượt ra ngoài những lo lắng và những mối quan tâm nhỏ nhặt làm rối loạn cuộc sống bình thường, nhưng chúng ta cũng là một phần có mong ước cao hơn nhằm tô bồi cho phúc lợi của tất cả chúng sinh, khi năng lực có hạn và đã bị hư hỏng bởi nghiệp không biết từ đâu?

BA YẾU TỐ CỐT LỖI

1) Trong Phật giáo Tịnh độtình thương vô điều kiện lớn lao mà chúng ta trực cảm được thể hiện ở Đức Phật A Di Đà, vị Phật Vô Lượng ThọVô Lượng Quang. Trong Phật giáo Đại thừa, trong đó Tịnh độ là một bộ phận, có một ý thức mạnh mẽ rằng bản thể của Đức Phật không phải chỉ giới hạn ở một nơi và một khoảng thời gian duy nhất mà là hiện hữu trên toàn vũ trụ, truyền cảm hứng và mang lại lợi ích cho chúng ta. Đây được gọi là báo thân của Đức Phật. Trong Tịnh độgiác ngộ không phải là quá sức để đạt được bằng thành tựu cá nhân, mà là thứ liên tục tắm gội chúng ta, một thứ ánh sáng cho thế giới đã được ban cho bởi sự hiện diện vô hạn của chư Phật và giáo pháp.

2/ Thứ hai, trái ngược với trực giác hứng khởi này, thực hành Tịnh độ cũng bắt đầu với sự thừa nhận rằng, bản thân không thể hiện một cách hoàn hảo trí tuệ và lòng từ bi tương xứng; Đó là một thực tế và bằng chứng hàng ngày, chúng ta là những chúng sinh si mê, dễ bị tổn thương về mặt cảm xúc và dễ mắc lỗi lầm. Đây là trạng thái mà những người bình thường nhận ra khi họ nói: “Tôi chỉ là con người.” Trong tiếng Nhật, đó là bản chất bombu của con người. Theo nghĩa này, chúng ta thực sự là “những chúng sinh ngu si” và chính sự tự nhận khiêm tốn này là nền tảng thứ hai của pháp tu Tịnh độ.

3/ Đặt hai điều này lại với nhau – một mặt là thừa nhận tình thương phổ quát và mặt khác là bản chất giới hạn của chính chúng ta – bất ngờ thay, chúng ta có thể trải qua một sự chuyển đổi, hoặc thậm chí là một cú sốc. Ở đây, chúng ta dễ bị tham, sân, si dưới mọi hình thứcthường hành động ích kỷ và phạm sai lầm, đôi khi gây ra hậu quả thảm khốc, thế mà từ cách nhìn từ bi phổ quát, chúng ta được yêu thương và chấp nhận như chúng ta là thế. Trong ngôn ngữ của Phật giáo Tịnh độchúng ta được chấp nhận bởi tình thương của chư Phật, cụ thể là Đức Phật A Di Đà. Trong pháp môn Tịnh độchúng ta niệm danh hiệu Phật để bày tỏ cảm nghĩ về điều này, đặc biệt là lòng biết ơn và sự bất ngờ hân hoan của chúng ta.

Thế thì, đây là ba nền tảng của thực hành Tịnh độ. Đầu tiên, phải nhận ra sự hiện diện phổ quát của chư Phật. Thứ hai, đối mặt với bản chất giới hạn của chính chúng ta. Thứ ba, thể hiện sự hân hoan bừng nở thông qua việc niệm hồng danh của Đức Phật. Khi chúng ta tiếp tục thực hành như vậy, việc niệm hồng danh tự nó xoay chuyển và làm cho chúng ta xoay chuyển. Chúng ta bắt đầu trải nghiệm điều đó không chỉ về phía tôi cầu Phật, mà ngày càng nhiều hơn khi Đức Phật đáp ứng tôi. Do đó, Phật giáo Tịnh độ là một “lời gọi” theo cả hai nghĩa của từ này. Đó là một thực hành gọi đến, và đó cũng là một cảm giác được gọi – một thực hành định hướng cuộc sống của một người và cung cấp một sự an toàn tinh thần vượt qua sinh tử.

THỰC HÀNH NIỆM PHẬT

Có nhiều cách để niệm hồng danh Đức Phật và trên khắp thế giới Phật giáo, những Phật tử làm như vậy theo cách này hay cách khác. Nó có thể là “Namo Buddhaya”, “Namo Tassa,” hoặc “Buddham saranam gacchami”. Ở Trung Quốc, nó có thể là “Omito Fo” và ở Nhật Bản là “Namo Amida Butsu”. Ở phương Tây, câu niệm cuối cùng này có xu hướng được Anh hóa thành “Namo Amida Bu” để bảo tồn hình thức sáu âm tiết của nhiều bài tụng kinh Nhật BảnPhương pháp đọc hồng danh Phật này được gọi là nembutsu (niệm Phật).

Thuật ngữ nembutsu có nghĩa là “Chánh niệm của Phật”. Namo Amida Bu (Nam Mô A Di Đà Phật) có nghĩa là “Tôi cầu Đức Phật vô lượng”. Tuy nhiên, trong thực tếthực hành này không phải là một khẳng định trí tuệ hoặc nhận thức; đó là sự thể hiện tình cảm và là cách mở rộng trái tim để đón nhận. Khi một người niệm Phật, đó là một biểu hiện của lòng biết ơn và sự hân hoan đồng thời cũng là một biểu hiện của bất kỳ cảm giác tâm linh nào đang khởi lên tại thời điểm đó. Theo nghĩa này, đó là một sự dâng hiến mình và một sự đón nhận ân huệNiệm Phật là con đường hai chiều kết nối bạn với Phật. Đó không phải là một chiếc áo khoác bó sát, không phải là một nỗ lực ép bản thân vào một hình thức quy định hoặc đạt đến một trạng thái tâm đã xác định trước. Mỗi khi một người niệm Phật, một điều gì đó khang khác có thể phát sinh. Bất kể người đó là ai, người đó dâng hiến và người đó nhận về những gì cần. Dấu ấn của Tịnh độ là sự chấp nhận lớn lao, và một trong những điều khó khăn nhất để được chấp nhận là người đó đã sẵn sàng chấp nhận.

Niệm Phật có thể nói, cầu, tụng kinh hoặc được thể hiện bằng bất kỳ cách nào trong rất nhiều cách, với nhịp điệu, hình thức, giai điệu và định dạng, theo nhóm, trong các buổi lễ trang nghiêm hoặc trong khi đi bộ. Nếu có điều gì đó tốt đẹp sẽ xảy ra, ta niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Nếu có điều gì đó tồi tệ xảy ra, ta “Nam mô A Di Đà Phật”. Kẹt xe trước đèn giao thông, ta niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Gặp một người cùng tu học, ta niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Khi một người nhập vào niệm Phật, các thực hành khác cũng bắt đầu trở thành các hình thức niệm Phật. Vái, lạy là niệm Phật với thân. Hành vi bố thí là niệm Phật vì người khác. Viếng điện Phật là niệm Phật, bởi vì chúng ta được vào chánh niệm của Đức Phật.

Những gì chúng ta đang nói đến không thực sự là một kỹ thuật mà là một cách tiếp cận hoặc định hướng. Nó liên quan đến việc sử dụng tích cực trí tưởng tượng và dâng tràn cảm xúcToàn bộ con người được chấp nhậnTịnh độ là đầy biểu cảm và chất thơ. Tịnh độ bao gồm sự tròn đầy và bi ai của cuộc sống. Đôi khi có thể nói rằng, Tịnh độ là dành cho những người trong chúng ta, những người đã thất bại trước nhiều cách tiếp cận có kỷ luật, khổ hạnh hoặc đòi hỏi cao, cũng có thể là những người quá nhạy cảm, hoặc quá văn nghệ, hoặc quá bình thường đối với những con đường vẻ vang hơn. Chỉ cần niệm, niệm Phật, và tiếp tục như thế.

Một điều mà chúng ta có thể thấy rõ là trong mức độ như thế, chúng ta có cảm giác rằng chúng ta được chấp nhận ngay cả khi chúng ta đang là, vậy thì chúng ta có xu hướng trở nên dễ chấp nhận người khác hơn. Một cách rốt ráo, họ là những con người thiếu sót và dễ sai lầm giống như chúng ta, và họ đang chống chọi với những khó khăn luân hồi giống như gánh nặng nghiệp của chính họ, cũng như chúng taChúng ta trở nên thông cảm hơn với những thất bại của người khác. Chúng ta cảm thấy được yêu thương và đổi lại có thể yêu thương người khác nhiều hơn. Đây là nền tảng của lòng từ bi chân chính và tình cảm đồng loại, là hương vị phổ quát của giáo pháp. Khi chúng ta vững vàng theo hướng Tịnh độ, những thất bại và bi kịch xảy đến, hãy vững vàng niềm tin hơn là làm lung lay niềm tin của chúng ta.

“Lúc rơi xuống

là lúc dâng lên

một bông sen”

(Zuigen Inagaki)

Để bắt đầu thực hành, bạn không nhất thiết phải biết chính xác Phật A Di Đà là vị Phật nào, hoặc cách thức niệm Phật như thế nào. Đừng ngăn chặn trí tưởng tượng, trực giác hoặc cảm xúc của bạn. Đây không phải là một tín điều hay một giáo điều; nó là một phong cách. Bạn có thể tạo ra cảm giác về Phật A Di Đà như một nguồn năng lượng lành mạnh đang tỏa ranhư tinh thần mà Đức Phật đã sống một cuộc đời tốt đẹp, hoặc như tình thương vô điều kiện, nhưng đừng lo lắng về sự chính xác hay đúng đắn. Nếu bạn có ý thức rằng niệm Phật có thể là một điều tốt và tin tưởng rằng cứ làm như thế là tốt, thì điều đó là hay quá. Trên thực tế, nó không chỉ là tốt và còn thêm lý do đặc biệt. Ở nơi đâu mà nhiều thực hành tâm linh ngày càng được nhận thức sắc bén và chính xác, thì ở nơi đó, Tịnh độ càng là phương cách để cho cảm giác tâm linh chìm vào vô thức của con người. Không hẳn là chúng ta thực hành quá nhiều để thực hành tác động vào chúng ta, mà chính là nó diễn ra một cách lặng lẽchìm lắng, từng chút một biến đổi cuộc sống của con người. Hãy thử đi. Nếu nó phù hợp với bạn, hãy tiếp tục!

Một cách tốt để bắt đầu thực hành niệm Phật là tụng “Nam Mô A Di Đà Phật” trong năm phút, một hoặc hai lần mỗi ngày. Cứ như thế. bạn có thể nói những từ đó hoặc nghe bản ghi âm bài tụng niệm mà bạn có thể tìm thấy trên mạng. Thoải mái tụng niệm theo ghi âm, hoặc tụng một mình và thay đổi tốc độ hoặc cao độ cho phù hợp với giọng của bạn. Một số người cảm thấy ngượng nghịu khi lần đầu tiên bắt đầu tụng kinh hoặc lo lắng về việc liệu họ có làm “đúng” hay không. Những cảm giác này có thể sẽ mất dần sau một vài ngày.

Nếu niệm như thế là hữu ích, bạn cũng có thể kết hợp niệm Phật vào cuộc sống hàng ngày. Những người khai sinh pháp môn này nhận thấy nhiều người dân Trung Quốc hoặc Nhật Bản bình thường thực hành niệm Phật trong khi trồng lúa hoặc chèo thuyền. Trong trường hợp của chúng tôiniệm Phật có thể là khi cắt cỏ hoặc lái xe ô tô.

Sau đó, một lần nữa, như trong bất kỳ thực hành nào, nếu có thểkết hợp với các bạn đồng tu là điều tốt. Ở Đông Á, điều này rất dễ dàng, nhưng ở phương Tây, người ta đến với nhau thông qua Internet. Thật là tuyệt vời khi chúng ta có thể gặp gỡ trực tiếp và cùng nhau tụng kinhTụng kinh là một phương pháp thực hành mang mọi người đến gần nhau hơn, ngay cả khi nó qua một liên kết video. Một buổi nhóm hộ niệm với một khoảng thời gian để tụng kinh và một chút thời gian để chia sẻ cá nhân có thể là một sự hỗ trợ tuyệt vời để thực hành ngay cả khi chỉ có hai hoặc ba người có mặt, biết đâu ít thế còn hữu ích hơn trong một nhóm lớn hơn.

Bằng tất cả những cách này, chúng ta có thể bày tỏ lòng biết ơn về những gì chúng ta nhận được. Yếu tố cốt lõi của giáo pháp là giáo lý duyên khởi. Mọi thứ phát sinh từ nguyên nhân và điều kiện, có nghĩa là mọi thứ chúng-ta-đang-là và mọi thứ chúng ta có đều phụ thuộc vào những thứ khác mà chúng ta có thể bày tỏ lòng biết ơnNiệm Phật là cách để làm điều đó – một cách không chỉ tạ ơn trong hoàn cảnh cụ thể mà còn đồng thời, chỉ trong sáu âm tiết, chúng ta cầu khẩn và kết nối tất cả những người liên quan đến trí tuệ và lòng từ bi vô hạn của chư Phật. Khi bạn nhận tách cà phê, “Nam Mô A Di Đà Phật”.

Không thể nói chính xác năng lượng lành mạnh này sẽ ảnh hưởng đến bạn như thế nào – nó sẽ phụ thuộc vào những gì bạn cần. Đôi khi chúng ta thậm chí không biết điều gì là tốt nhất cho bản thânvì vậy chúng ta tin tưởng rằng, có điều gì đó tốt đẹp sẽ bắt đầu mở ra. Khi ngày tháng trôi qua, bạn có thể bắt đầu cảm thấy bình yên hơn hoặc có nhiều cách nhìn hơn về các vấn đề của mình. Một số người nhận thấy họ đang đối mặt với cảm xúc của mình theo cách khác đi và kiên nhẫn hơn với chính mình và những người xung quanh. Hầu hết mọi người cảm thấy ổn định và an toàn hơn, ít lo lắng và tự nhiên hơn.

Shinran (Thân Loan), đệ tử nổi tiếng nhất của Honen Shonin, đã nói trong bài hát của mình rằng, Tịnh độ là jinen, đôi khi được dịch là “tính tự nhiên” hoặc “mọi thứ ở trạng thái tự nhiên”. Hay như giảng sư Tịnh độ Zuigen Inagaki viết:

“Đúng như bạn là,

Thật vậy,

Đúng như bạn là!”

Tôi hy vọng rằng bạn thích những khám phá của bạn với niệm Phật và nó mang lại cho bạn nguồn cảm hứng, sự bình ancan đảm và thoải mái như nó đã mang lại cho tôi.

Nam Mô A Di Đà Phật!

 

Chú thích:

Nguyên tác: “Pure and Simple Practice”, tạp chí Tricycle, Winter 2018.

Tác giả: Dharmavidya David Brazier là một giảng sư Phật giáotác giả sách, và giám đốc của International Zen Therapy Institute (Viện thiền trị liệu quốc tế). Ông cũng là người đứng đầu của Amida Order, một tăng đoàn Tịnh độ.
(Trích từ: Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 403 ngày 15-12-2022)


Thực hành Tịnh độ là đơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linhTịnh độ phù hợp với những người có cuộc sống bận rộn, phù hợp với những người đang đấu tranh với những thói quen tự hủy hoại mình hoặc thất vọng, tức giận, buồn bã, rối loạn, cũng như đối với những người tràn đầy niềm vui trong cuộc sống. Tịnh độ kết nối chúng ta với vẻ đẹp trên thế giới, đầy nghệ thuật và thơ ca, nuôi dưỡng lòng biết ơn đối với tất cả những gì chúng ta nhận được và khôi phục niềm tin căn bản.

Nguồn gốc của pháp môn Tịnh độ nằm trong những lời dạy của Đức Phật Thích Ca dành cho cư sĩ và lòng sùng kính mà mọi người hướng về Ngài trong và sau cuộc đời của Ngài. Những người phổ biến rộng rãi cách tu tập này – Shan Tao (Thiện Đạo Đại sư) ở Trung Quốc thế kỷ thứ VII và Honen Shonin (Pháp Nhiên Đại sư) ở Nhật Bản thế kỷ XII, cùng những vị thầy, môn đồ và cộng sự – đó là những người sống đời sống Phật giáo mẫu mực và tiếp thu toàn bộ giáo lý Phật giáo, nhưng đã chọn cách thực hành này để mọi người bình thường có thể tiếp cận được, bất kể hoàn cảnh, phẩm hạnh cá nhân, giới tính, địa vị hay lịch sử của họ là gì. Những đạo sư này đã sống trong thời kỳ đen tối và mang đến hy vọng cho nhân gian.

Honen Shonin chứng kiến cha mình bị giết trong cuộc nội chiến. Ông lo lắng cho số phận của mẹ mình, một người Triều Tiên nhập cư. Ông đã bị sốc bởi những gì nhìn thấy về sự tàn bạo của con người trong cuộc nổi dậy Hogen (1156). Ông hiểu rằng nhiều người bị mắc kẹt trong những điều kiện xã hội áp bức mà họ không thể làm được gì cả. Ông đã thiết lập môn phái niệm Phật (nembutsu), niệm danh hiệu của Đức Phật, như một thực hành của tình liên đới và niềm an ủi cho những người bị áp bức.

Những câu hỏi trọng tâm của Phật giáo Tịnh độ là từ xa xưa và phổ quát: Làm thế nào chúng ta có thể đặt mình trong mối quan hệ với tình thương vô điều kiện và sống một cuộc sống cởi mở, tự nhiêntừ bi và đầy tin tưởng, với giả thiết rằng, chúng ta chỉ là những con người bình thường đang sống trong một thế giới, như Đức Phật đã dạy, bùng cháy bởi tham, sân, si? Bản thân chúng ta không miễn nhiễm: Chúng ta là một phần của thế giới này. Chúng ta không thể vượt ra ngoài những lo lắng và những mối quan tâm nhỏ nhặt làm rối loạn cuộc sống bình thường, nhưng chúng ta cũng là một phần có mong ước cao hơn nhằm tô bồi cho phúc lợi của tất cả chúng sinh, khi năng lực có hạn và đã bị hư hỏng bởi nghiệp không biết từ đâu?

BA YẾU TỐ CỐT LỖI

1) Trong Phật giáo Tịnh độtình thương vô điều kiện lớn lao mà chúng ta trực cảm được thể hiện ở Đức Phật A Di Đà, vị Phật Vô Lượng ThọVô Lượng Quang. Trong Phật giáo Đại thừa, trong đó Tịnh độ là một bộ phận, có một ý thức mạnh mẽ rằng bản thể của Đức Phật không phải chỉ giới hạn ở một nơi và một khoảng thời gian duy nhất mà là hiện hữu trên toàn vũ trụ, truyền cảm hứng và mang lại lợi ích cho chúng ta. Đây được gọi là báo thân của Đức Phật. Trong Tịnh độgiác ngộ không phải là quá sức để đạt được bằng thành tựu cá nhân, mà là thứ liên tục tắm gội chúng ta, một thứ ánh sáng cho thế giới đã được ban cho bởi sự hiện diện vô hạn của chư Phật và giáo pháp.

2/ Thứ hai, trái ngược với trực giác hứng khởi này, thực hành Tịnh độ cũng bắt đầu với sự thừa nhận rằng, bản thân không thể hiện một cách hoàn hảo trí tuệ và lòng từ bi tương xứng; Đó là một thực tế và bằng chứng hàng ngày, chúng ta là những chúng sinh si mê, dễ bị tổn thương về mặt cảm xúc và dễ mắc lỗi lầm. Đây là trạng thái mà những người bình thường nhận ra khi họ nói: “Tôi chỉ là con người.” Trong tiếng Nhật, đó là bản chất bombu của con người. Theo nghĩa này, chúng ta thực sự là “những chúng sinh ngu si” và chính sự tự nhận khiêm tốn này là nền tảng thứ hai của pháp tu Tịnh độ.

3/ Đặt hai điều này lại với nhau – một mặt là thừa nhận tình thương phổ quát và mặt khác là bản chất giới hạn của chính chúng ta – bất ngờ thay, chúng ta có thể trải qua một sự chuyển đổi, hoặc thậm chí là một cú sốc. Ở đây, chúng ta dễ bị tham, sân, si dưới mọi hình thứcthường hành động ích kỷ và phạm sai lầm, đôi khi gây ra hậu quả thảm khốc, thế mà từ cách nhìn từ bi phổ quát, chúng ta được yêu thương và chấp nhận như chúng ta là thế. Trong ngôn ngữ của Phật giáo Tịnh độchúng ta được chấp nhận bởi tình thương của chư Phật, cụ thể là Đức Phật A Di Đà. Trong pháp môn Tịnh độchúng ta niệm danh hiệu Phật để bày tỏ cảm nghĩ về điều này, đặc biệt là lòng biết ơn và sự bất ngờ hân hoan của chúng ta.

Thế thì, đây là ba nền tảng của thực hành Tịnh độ. Đầu tiên, phải nhận ra sự hiện diện phổ quát của chư Phật. Thứ hai, đối mặt với bản chất giới hạn của chính chúng ta. Thứ ba, thể hiện sự hân hoan bừng nở thông qua việc niệm hồng danh của Đức Phật. Khi chúng ta tiếp tục thực hành như vậy, việc niệm hồng danh tự nó xoay chuyển và làm cho chúng ta xoay chuyển. Chúng ta bắt đầu trải nghiệm điều đó không chỉ về phía tôi cầu Phật, mà ngày càng nhiều hơn khi Đức Phật đáp ứng tôi. Do đó, Phật giáo Tịnh độ là một “lời gọi” theo cả hai nghĩa của từ này. Đó là một thực hành gọi đến, và đó cũng là một cảm giác được gọi – một thực hành định hướng cuộc sống của một người và cung cấp một sự an toàn tinh thần vượt qua sinh tử.

THỰC HÀNH NIỆM PHẬT

Có nhiều cách để niệm hồng danh Đức Phật và trên khắp thế giới Phật giáo, những Phật tử làm như vậy theo cách này hay cách khác. Nó có thể là “Namo Buddhaya”, “Namo Tassa,” hoặc “Buddham saranam gacchami”. Ở Trung Quốc, nó có thể là “Omito Fo” và ở Nhật Bản là “Namo Amida Butsu”. Ở phương Tây, câu niệm cuối cùng này có xu hướng được Anh hóa thành “Namo Amida Bu” để bảo tồn hình thức sáu âm tiết của nhiều bài tụng kinh Nhật BảnPhương pháp đọc hồng danh Phật này được gọi là nembutsu (niệm Phật).

Thuật ngữ nembutsu có nghĩa là “Chánh niệm của Phật”. Namo Amida Bu (Nam Mô A Di Đà Phật) có nghĩa là “Tôi cầu Đức Phật vô lượng”. Tuy nhiên, trong thực tếthực hành này không phải là một khẳng định trí tuệ hoặc nhận thức; đó là sự thể hiện tình cảm và là cách mở rộng trái tim để đón nhận. Khi một người niệm Phật, đó là một biểu hiện của lòng biết ơn và sự hân hoan đồng thời cũng là một biểu hiện của bất kỳ cảm giác tâm linh nào đang khởi lên tại thời điểm đó. Theo nghĩa này, đó là một sự dâng hiến mình và một sự đón nhận ân huệNiệm Phật là con đường hai chiều kết nối bạn với Phật. Đó không phải là một chiếc áo khoác bó sát, không phải là một nỗ lực ép bản thân vào một hình thức quy định hoặc đạt đến một trạng thái tâm đã xác định trước. Mỗi khi một người niệm Phật, một điều gì đó khang khác có thể phát sinh. Bất kể người đó là ai, người đó dâng hiến và người đó nhận về những gì cần. Dấu ấn của Tịnh độ là sự chấp nhận lớn lao, và một trong những điều khó khăn nhất để được chấp nhận là người đó đã sẵn sàng chấp nhận.

Niệm Phật có thể nói, cầu, tụng kinh hoặc được thể hiện bằng bất kỳ cách nào trong rất nhiều cách, với nhịp điệu, hình thức, giai điệu và định dạng, theo nhóm, trong các buổi lễ trang nghiêm hoặc trong khi đi bộ. Nếu có điều gì đó tốt đẹp sẽ xảy ra, ta niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Nếu có điều gì đó tồi tệ xảy ra, ta “Nam mô A Di Đà Phật”. Kẹt xe trước đèn giao thông, ta niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Gặp một người cùng tu học, ta niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Khi một người nhập vào niệm Phật, các thực hành khác cũng bắt đầu trở thành các hình thức niệm Phật. Vái, lạy là niệm Phật với thân. Hành vi bố thí là niệm Phật vì người khác. Viếng điện Phật là niệm Phật, bởi vì chúng ta được vào chánh niệm của Đức Phật.

Những gì chúng ta đang nói đến không thực sự là một kỹ thuật mà là một cách tiếp cận hoặc định hướng. Nó liên quan đến việc sử dụng tích cực trí tưởng tượng và dâng tràn cảm xúcToàn bộ con người được chấp nhậnTịnh độ là đầy biểu cảm và chất thơ. Tịnh độ bao gồm sự tròn đầy và bi ai của cuộc sống. Đôi khi có thể nói rằng, Tịnh độ là dành cho những người trong chúng ta, những người đã thất bại trước nhiều cách tiếp cận có kỷ luật, khổ hạnh hoặc đòi hỏi cao, cũng có thể là những người quá nhạy cảm, hoặc quá văn nghệ, hoặc quá bình thường đối với những con đường vẻ vang hơn. Chỉ cần niệm, niệm Phật, và tiếp tục như thế.

Một điều mà chúng ta có thể thấy rõ là trong mức độ như thế, chúng ta có cảm giác rằng chúng ta được chấp nhận ngay cả khi chúng ta đang là, vậy thì chúng ta có xu hướng trở nên dễ chấp nhận người khác hơn. Một cách rốt ráo, họ là những con người thiếu sót và dễ sai lầm giống như chúng ta, và họ đang chống chọi với những khó khăn luân hồi giống như gánh nặng nghiệp của chính họ, cũng như chúng taChúng ta trở nên thông cảm hơn với những thất bại của người khác. Chúng ta cảm thấy được yêu thương và đổi lại có thể yêu thương người khác nhiều hơn. Đây là nền tảng của lòng từ bi chân chính và tình cảm đồng loại, là hương vị phổ quát của giáo pháp. Khi chúng ta vững vàng theo hướng Tịnh độ, những thất bại và bi kịch xảy đến, hãy vững vàng niềm tin hơn là làm lung lay niềm tin của chúng ta.

“Lúc rơi xuống

là lúc dâng lên

một bông sen”

(Zuigen Inagaki)

Để bắt đầu thực hành, bạn không nhất thiết phải biết chính xác Phật A Di Đà là vị Phật nào, hoặc cách thức niệm Phật như thế nào. Đừng ngăn chặn trí tưởng tượng, trực giác hoặc cảm xúc của bạn. Đây không phải là một tín điều hay một giáo điều; nó là một phong cách. Bạn có thể tạo ra cảm giác về Phật A Di Đà như một nguồn năng lượng lành mạnh đang tỏa ranhư tinh thần mà Đức Phật đã sống một cuộc đời tốt đẹp, hoặc như tình thương vô điều kiện, nhưng đừng lo lắng về sự chính xác hay đúng đắn. Nếu bạn có ý thức rằng niệm Phật có thể là một điều tốt và tin tưởng rằng cứ làm như thế là tốt, thì điều đó là hay quá. Trên thực tế, nó không chỉ là tốt và còn thêm lý do đặc biệt. Ở nơi đâu mà nhiều thực hành tâm linh ngày càng được nhận thức sắc bén và chính xác, thì ở nơi đó, Tịnh độ càng là phương cách để cho cảm giác tâm linh chìm vào vô thức của con người. Không hẳn là chúng ta thực hành quá nhiều để thực hành tác động vào chúng ta, mà chính là nó diễn ra một cách lặng lẽchìm lắng, từng chút một biến đổi cuộc sống của con người. Hãy thử đi. Nếu nó phù hợp với bạn, hãy tiếp tục!

Một cách tốt để bắt đầu thực hành niệm Phật là tụng “Nam Mô A Di Đà Phật” trong năm phút, một hoặc hai lần mỗi ngày. Cứ như thế. bạn có thể nói những từ đó hoặc nghe bản ghi âm bài tụng niệm mà bạn có thể tìm thấy trên mạng. Thoải mái tụng niệm theo ghi âm, hoặc tụng một mình và thay đổi tốc độ hoặc cao độ cho phù hợp với giọng của bạn. Một số người cảm thấy ngượng nghịu khi lần đầu tiên bắt đầu tụng kinh hoặc lo lắng về việc liệu họ có làm “đúng” hay không. Những cảm giác này có thể sẽ mất dần sau một vài ngày.

Nếu niệm như thế là hữu ích, bạn cũng có thể kết hợp niệm Phật vào cuộc sống hàng ngày. Những người khai sinh pháp môn này nhận thấy nhiều người dân Trung Quốc hoặc Nhật Bản bình thường thực hành niệm Phật trong khi trồng lúa hoặc chèo thuyền. Trong trường hợp của chúng tôiniệm Phật có thể là khi cắt cỏ hoặc lái xe ô tô.

Sau đó, một lần nữa, như trong bất kỳ thực hành nào, nếu có thểkết hợp với các bạn đồng tu là điều tốt. Ở Đông Á, điều này rất dễ dàng, nhưng ở phương Tây, người ta đến với nhau thông qua Internet. Thật là tuyệt vời khi chúng ta có thể gặp gỡ trực tiếp và cùng nhau tụng kinhTụng kinh là một phương pháp thực hành mang mọi người đến gần nhau hơn, ngay cả khi nó qua một liên kết video. Một buổi nhóm hộ niệm với một khoảng thời gian để tụng kinh và một chút thời gian để chia sẻ cá nhân có thể là một sự hỗ trợ tuyệt vời để thực hành ngay cả khi chỉ có hai hoặc ba người có mặt, biết đâu ít thế còn hữu ích hơn trong một nhóm lớn hơn.

Bằng tất cả những cách này, chúng ta có thể bày tỏ lòng biết ơn về những gì chúng ta nhận được. Yếu tố cốt lõi của giáo pháp là giáo lý duyên khởi. Mọi thứ phát sinh từ nguyên nhân và điều kiện, có nghĩa là mọi thứ chúng-ta-đang-là và mọi thứ chúng ta có đều phụ thuộc vào những thứ khác mà chúng ta có thể bày tỏ lòng biết ơnNiệm Phật là cách để làm điều đó – một cách không chỉ tạ ơn trong hoàn cảnh cụ thể mà còn đồng thời, chỉ trong sáu âm tiết, chúng ta cầu khẩn và kết nối tất cả những người liên quan đến trí tuệ và lòng từ bi vô hạn của chư Phật. Khi bạn nhận tách cà phê, “Nam Mô A Di Đà Phật”.

Không thể nói chính xác năng lượng lành mạnh này sẽ ảnh hưởng đến bạn như thế nào – nó sẽ phụ thuộc vào những gì bạn cần. Đôi khi chúng ta thậm chí không biết điều gì là tốt nhất cho bản thânvì vậy chúng ta tin tưởng rằng, có điều gì đó tốt đẹp sẽ bắt đầu mở ra. Khi ngày tháng trôi qua, bạn có thể bắt đầu cảm thấy bình yên hơn hoặc có nhiều cách nhìn hơn về các vấn đề của mình. Một số người nhận thấy họ đang đối mặt với cảm xúc của mình theo cách khác đi và kiên nhẫn hơn với chính mình và những người xung quanh. Hầu hết mọi người cảm thấy ổn định và an toàn hơn, ít lo lắng và tự nhiên hơn.

Shinran (Thân Loan), đệ tử nổi tiếng nhất của Honen Shonin, đã nói trong bài hát của mình rằng, Tịnh độ là jinen, đôi khi được dịch là “tính tự nhiên” hoặc “mọi thứ ở trạng thái tự nhiên”. Hay như giảng sư Tịnh độ Zuigen Inagaki viết:

“Đúng như bạn là,

Thật vậy,

Đúng như bạn là!”

Tôi hy vọng rằng bạn thích những khám phá của bạn với niệm Phật và nó mang lại cho bạn nguồn cảm hứng, sự bình ancan đảm và thoải mái như nó đã mang lại cho tôi.

Nam Mô A Di Đà Phật!

 

Chú thích:

Nguyên tác: “Pure and Simple Practice”, tạp chí Tricycle, Winter 2018.

Tác giả: Dharmavidya David Brazier là một giảng sư Phật giáotác giả sách, và giám đốc của International Zen Therapy Institute (Viện thiền trị liệu quốc tế). Ông cũng là người đứng đầu của Amida Order, một tăng đoàn Tịnh độ.
(Trích từ: Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 403 ngày 15-12-2022)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17495)
Niềm hạnh phúc lớn nhất trong đời tôi chính là giây phút đầu tiên tôi đặt chân vào tòa nhà chánh Pháp. Một luồng rung cảm lâng lâng niềm hỷ lạc...
(Xem: 16691)
Trên đường trở về nhà, con gái cứ luôn ngọng ngọng nghịu nghịu hỏi tôi: “Bố ơi, mấy con cá bị người ta bắt đi thật là tội nghiệp!”...
(Xem: 16013)
Tôi thấy một sự thinh lặng trong một khu vườn thiền, zen garden, ngay gọn không tì vết. Tôi thấy sự thinh lặng nơi một kệ sách với những quyển sách thẳng hàng...
(Xem: 18329)
Từ lâu, tình thương là chất liệu ngọt ngào không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Chất liệu đó đã là nhịp cầu nối tâm linh...
(Xem: 15417)
Trời bắt đầu vào thu với những ngày mưa thường xuyên hơn. Không gian se lạnh về theo những ngày nhiều mây và len sang cả những ngày có nắng.
(Xem: 16392)
Ái dụcyếu tố quan trọng đưa đến luân hồi sanh tử trong cõi Dục này. Chúng sanh đã đầu thai vào cõi Dục nghĩa là nghiệp ái dục rất nặng.
(Xem: 16814)
Tôi đã từng lên chùa Ông Núi. Nghe chuyện người tu hành ngày xưa thấy rõ là bậc chân tu. Và thêm một lần nữa, tôi yêu mến những ngôi chùa trên núi.
(Xem: 16256)
Ngay từ khi Thế Tôn còn hiện hữu giữa cuộc đời, những vị Tỳ-kheo đã từng được diện kiến đức Thế Tôn trong những buổi pháp thoại tại tịnh xá Kỳ Hoàn, hay tịnh xá Trúc Lâm.
(Xem: 17771)
Với nhãn căn, chỉ mở mắt ra là lập tức thấy cảnh vật quanh ta, có hoa là thấy hoa, có bướm là thấy bướm, không cần vận dụng một suy nghĩ quanh co nào.
(Xem: 15180)
Cà phê chậm rãi nhỏ giọt, cái màu đen đặc sánh gợi một nỗi đau nhưng nhức. Bản Serenat của F.Schubert từ góc quán cất lên, bản nhạc mà thời còn đi học anh rất thích.
(Xem: 16607)
Con sông Ni Liên Thiền, tên gọi đó đã gắn liền với sự chứng đắc của một bực Thánh nhân xuất thế - Thái tử Tất-đạt-đa, Người đã đến bên dòng sông này sau sáu năm tu khổ hạnh.
(Xem: 21134)
Hãy niệm câu “thần chú” ấy mỗi ngày đi, rồi bạn sẽ thấy “đời rất đẹp”. Đời không phải là rác rưởi, đáng chán, là muộn phiền, âu lo đầy dẫy như bạn từng mặc định.
(Xem: 29764)
Vở Cải Lương Phật giáo đấu tiên được ra đời từ những tâm nguyện ấy ,đó là vở “THÁI TỬ A-XÀ-THẾ”. Soạn giả Dương Kinh Thành
(Xem: 22074)
Người xưa đã cỡi hạc vàng bay xa, Nơi này chỉ còn trơ lầu Hoàng Hạc, Hoàng hạc bay xa không trở lại...
(Xem: 16909)
Tôi say sưa ngắm nhìn cảnh tượng sáng ngời trước mắt tôi, những cành cây trơ trụi của mùa đông bây giờ đã khóac lên mình những hoa lá trắng mềm mại.
(Xem: 16850)
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. - Dương Kinh Thành
(Xem: 16315)
Một buổi sáng rằm, đầu mùa đông ngoài trời se lạnh, nhưng trong căn phòng khách cửa mở ra hướng Nam không bị gió thổi xốc vào nên cũng khá ấm áp.
(Xem: 14951)
Mất cũng phải hết một ngày đêm suy nghĩ đến nhức đầu mệt óc, cắn trụi móng của ngón tay cái, thằng Thạch mới tìm ra được cách giải cho bài toán hóc búa...
(Xem: 16375)
Không giống cô giáo cũ, khi còn nằm trên giường biết mình đã thức dậy – Tôi luôn có niềm vui đầu tiên là “nhận biết mình còn sống! Tôi còn có mặt trên cõi đời này.
(Xem: 15375)
chúng ta có một cuộc sống may mắn hay rủi ro thì điều ấy đã được quyết định bởi tâm thứchành nghiệp của chính chúng ta. Điều này được biết đến như là định luật nhân quả.
(Xem: 16943)
Chủ quanlạc quan đều là hai thái độ dẫn đến việc người ta sống vô tư, nhưng xét về bản chất thì một bên là không lường trước mọi việc còn một bên thì biết rõ mọi việc và chấp nhận…
(Xem: 15892)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi trăng nước tháng ngày...
(Xem: 18130)
Con thật may mắn đã đến được với Đạo Pháp bằng tâm chí thành. Tinh hoa của Đạo Pháp được gói trọn trong hai Bồ- Đề Tâm.
(Xem: 16034)
Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”... Huệ Trân
(Xem: 15181)
Ngày tôi nhận ra con đường đích thực của cuộc đời mình, em đã khóc rất nhiều. Em muốn tôi vẫn là tôi của những ngày mới quen nhau.
(Xem: 14392)
Bản chất của mùa xuânchuyển hóa. Nó có khả năng chuyển hóa đối với những gì đang có mặt nơi nó để nó trở thành mùa xuân cho chính nó...
(Xem: 15390)
Em hãy trở về nhìn sâu vào tâm em bằng đôi mắt thiền quán, với ý chí quyết liệt, với hướng đi cao khiết, với tấm lòng thanh bạchmở rộng...
(Xem: 17801)
Thử tắt điện thoại một ngày… Một cuộc “biến mất” không dự báo trước, đối với nhiều người. Đó là một cách biểu hiện của vô thường, dành tặng cho những người thân-thương.
(Xem: 17937)
Mỗi lần đi qua những cánh đồng đang mùa gặt, tôi lại nhớ về những ngày thơ ấu êm đềm ở làng quê. Cái hương quê ngai ngái mùi lúa mới ấy như cứ mãi vấn vít lòng tôi...
(Xem: 15190)
Nhân dịp đầu năm, đi chùa lễ Phật, nhìn thấy muôn hoa đua nở, vẻ đẹp tao nhã của thiên nhiên như lời chúc phúc tốt lành đến với tất cả mọi người.
(Xem: 14716)
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới - Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết cả).
(Xem: 15474)
Quãng đời ấy, là quãng đời của tôi có thật, nhưng xin quý vị đọc mà đừng tin, vì sự kiện ấy là của một thời gian đã đi qua, nó đã trở thành nắng mưa, sương gió,...
(Xem: 13418)
Cuối năm, trời trở nên rét hơn. Những cơn gió từ sông thổi vào mang theo hơi nước lạnh buốt. Con sông mùa này trông mênh mông, quạnh quẽ.
(Xem: 13251)
Gió thổi làm những chiếc lá lay động, làm nhánh cây, cành cây bâng khuâng, làm rừng xanh, đìu hiu xao xuyến. Con chim đang ngủ trong tổ giật mình thức giấc...
(Xem: 15554)
Em mới mười một tuổi, mẹ bỏ em lại bên chân núi. Ruộng dưa mênh mông, em ngơ ngác như con bù nhìn rơm giữa nắng và gió.
(Xem: 16742)
Về quê vào những ngày cuối năm mới thấy sao yêu đến vậy cái đồng đất quê mình, thương biết mấy những chị, những mẹ một nắng hai sương trên ruộng đồng.
(Xem: 11974)
Sau giờ thiền toạ sáng nay, lắng nghe lại lòng, hình như có dòng sông nào đó tuôn chảy qua đời, bắt được tiếng hơi thở thánh thót của vũ trụ...
(Xem: 13412)
Phật của ngoại nhỏ xíu, chỉ cao hơn gang tay tôi một chút - dĩ nhiên, đó là gang tay của một cậu bé mười tuổi. Phật cũng không đẹp chi lắm...
(Xem: 18011)
Tự do chính là quyền cơ bản của một con người. Do vậy ai tước đi tự do của người khác đều là hành vi vi phạm nhân quyền.
(Xem: 16319)
Khái niệm về thảnh thơi có lẽ nó đơn giản hơn nhiều khi ta đừng gắng thêm cho nó, cái “mốt”, cái danh, cái lợi và cái lòng kiêu hãnh hơn người… Có ai cấm ta những thứ đó đâu...
(Xem: 14233)
Nói về mùa xuân, ai cũng hình dung đến những điều tốt đẹp đang chờ đón mình trong năm mới. Nhưng rồi mùa xuân cũng đi qua, xuân năm nay trở thành xuân năm trước.
(Xem: 12764)
Hạnh phúc vĩnh hằng là sự tự do bình yên nội tại, sự tĩnh lặng nơi tâm thức, không bị khuấy động bởi những tranh đua, nhiễu nhương của cuộc đời.
(Xem: 16462)
Chúng ta là những lữ khách trên hành tinh này. Chúng ta có mặt ở đây nhiều lắm là chín mươi hay một trăm năm.
(Xem: 15598)
Năm Canh Dần trôi qua với biết bao nhiêu sự kiện xảy ra trên khắp thế giới. Hội nghị cấp cao Đông Á với sự xuất hiện của Nga và Mỹ, người Việt Nam đầu tiên đoạt Huy chương Fields danh giá...
(Xem: 15016)
Vị thầy người Nhật của tôi đã ra đi năm ngoái, quá trẻ, quá sớm. Bà chỉ mới năm mươi bốn tuổi, và không có ai để truyền thừa Pháp. Bà chỉ có năm người đệ tử...
(Xem: 19159)
Ta yêu chuộng sự sống một cách tha thiết, và ta sống hết lòng trong từng khoảnh khắc là do ta có ý thức rõ ràng về sự chết. Cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta.
(Xem: 15596)
Liên hệ của mọi cá thể trong vũ trụ này là liên hệ duyên sinh. Cái này có mặt là nhờ sự có mặt của những cái khác, không có cá thể nào tự tồn tại riêng biệt...
(Xem: 13680)
Mưa thật nhiều suốt đêm qua, những ánh chớp loé sáng, vẫy vùng trên bầu trời như rượt đuổi nhau với những nụ cười sáng rực. Mưa trút xuống dù không mời gọi, như réo rắc...
(Xem: 13843)
Trăng thì vằng vặc trên cao, trên bầu trời, sáng đẹp. Nhưng, trăng của tấm lòng, của chân tâm, thật là gần gũi, bình dị, trong sáng, thanh tịnh, không một gợn sóng mây...
(Xem: 14301)
Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua nước Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh vào đời làm một chú Linh Dương sống trong một bụi cây gần bên hồ nước ở trong cánh rừng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant