Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngọn Cờ Đức Phật

10 Tháng Giêng 202311:21(Xem: 2012)
Ngọn Cờ Đức Phật

Ngọn Cờ Đức Phật

Thích Trung Định

Ý Nghĩa Và Đặc Tính Của Duyên Khởi


Ngọn cờ là biểu tượng thiêng liêng của một tổ chức, đoàn thể, một quốc gia, một khu vực hay thế giới. Ngọn cờ mang ý nghĩa đặc thù được kết tinh từ sức mạnh của sự đoàn kết, biểu hiện nền độc lập chủ quyền của một quốc gia hay khu vực. Một quốc gia có một lá cờ riêng biệt thể hiện tính chủ quyền của quốc gia mình trên trường quốc tế. Có được ngọn cờ là phải đánh đổi cả mồ hôi xương máu, tâm sức và trí lực của cả cộng đồng. Do vậy, khi chào ngọn cờ là cúi chào một biểu tượng thiêng liêng của hồn thiêng sông núi. Từ đó khởi lên niềm tự hào để mọi người tiến bước đi lên, dấn thân bảo vệ bảo vật thiêng liêng cao quý ấy. Người phất cao ngọn cờ chính nghĩa là quyết tâm bảo vệ nền hòa bình, độc lậptự do. Lá cờ có sức hiệu triệu lòng dân đi theo, tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết để chiến thắng thế lực ngoại xâm nhằm bảo vệ non sông gấm vóc.


Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưng và đại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng. Sáu giải màu nằm dọc trên lá cờ đại diện cho sáu màu sắc của vầng hào quang tỏa ra từ đức Phật Thích-ca khi ngài đạt được Giác ngộ. Năm màu sắc đại diện cho ngũ cănngũ lực của Như Lai, đó là Tín. Tấn, Niệm, Định, Huệ.[1]

Ngọn cờ đức Phật biểu trưng cho sức mạnh nội tâm chiến thắng ma quân, xiển dương diệu phápcứu độ quần sanh. Sự ra đời và chứng ngộ đạo quả của đức Phật là dương cao ngọn cờ chánh pháp, chánh nhiếp tà pháp, dẹp trừ chướng ma, đưa đường dẫn lối cho chúng sanh đi đến bờ an vui giải thoát. Ngài xuất hiện trên cõi đời giống lên tiếng giống sư tử oai hùng, làm chúng ma khiếp sợ.

Có hai thế lực trên cuộc đời này, đó là thế lực ma và Phật. Nói cách khác là giữa cái thiện và cái ác. Thế lực tà ma là cái ác, khiến cho con người rơi vào u mêđen tối, đi đến đọa lạc và khổ đau; trong khi thế lực Phật là ánh sáng chân lýgiác ngộgiải thoát. Khi chúng ta bị thế lực ma đạo tấn công thì hãy hướng tâm đến ngọn cờ đức Phật thì sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược sẽ tiêu diệt.

Tương Ưng Bộ kinhKinh Đầu ngọn cờ, đức Phật dạy: “Thế Tôn trú ở Sāvatthi (Xá-vệ). Rồi Thế Tôn gọi các tỳ-khưu: “Này các tỳ-khưu.” “Thưa vâng, bạch Thế Tôn.” Các tỳ-khưu ấy vâng đáp Thế TônThế Tôn nói như sau: “Thuở xưa, này các tỳ-khưu, một cuộc chiến dữ dội khởi lên giữa chư thiên và các asura (a-tu-la). Rồi thiên chủ Sakka (Đế-thích) gọi chư thiên ở cõi trời Tavatiṃsa (Tam thập tam) và nói: ‘Này các ông, khi các ông lâm chiến, nếu sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên; lúc ấy, các ông hãy nhìn nơi đầu ngọn cờ của ta. Khi các ông nhìn lên đầu ngọn cờ của ta, thì sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược sẽ tiêu diệt. “Nếu các ông không nhìn lên đầu ngọn cờ của ta, thời hãy nhìn lên đầu ngọn cờ của thiên vương Pajāpati. Khi các ông nhìn lên đầu ngọn cờ ấy, thì sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược cũng sẽ tiêu diệt. “‘Nếu các ông không nhìn lên đầu ngọn cờ của thiên vương Pajāpati, hãy nhìn lên đầu ngọn cờ của thiên vương Varuṇa … Nếu các ông không nhìn lên đầu ngọn cờ của thiên vương Varuṇa …  Nếu các ông không nhìn lên đầu ngọn cờ của thiên vương  Īsāna … Khi các ông nhìn lên đầu ngọn cờ ấy, thì sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược cũng sẽ tiêu diệt.”

“Này các tỳ-khưu, khi họ nhìn lên đầu ngọn cờ của thiên chủ Sakka, hay của thiên vương Pajāpati, hay của thiên vương Varuṇa, hay của thiên vương Īsāna, thì sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược được khởi lên có thể sẽ tiêu diệt mà cũng có thể sẽ không tiêu diệt. Vì cớ sao? Vì thiên chủ Sakka, thiên vương Varuṇa,  thiên vương Pajāpati  chưa đoạn diệt tham, chưa đoạn diệt sân, chưa đoạn diệt si, còn nhát gan, hoảng hốt, hoảng sợ, hoảng chạy.”

“Nhưng này các tỳ-khưu, Ta nói như sau: ‘Khi các ông đi vào rừng, đi đến gốc cây hay đi đến ngôi nhà trống, nếu sợ hãi, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, lúc ấy hãy niệm nhớ đến Ta: ‘Ngài là Thế TônỨng CúngChánh Biến TriMinh Hạnh TúcThiện ThệThế Gian GiảiVô Thượng Sĩ  Điều Ngự Trượng PhuThiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’ Khi các ông niệm nhớ đến Ta, này các tỳ-khưu, thì sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt.

“Nếu các ông không niệm nhớ đến Ta, hãy niệm nhớ đến Pháp: ‘Đây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu’. Khi các ông niệm nhớ đến Pháp, này các tỳ-khưu, thì sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt’.

“Nếu các ông không niệm nhớ đến Pháp, hãy niệm nhớ đến chúng Tăng: ‘Chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là bậc thiện hạnhchúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là bậc trực hạnh, chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là bậc chánh hạnhchúng Tăng của đệ tử Thế Tôn là bậc như lý hạnh; tức là bốn đôi, tám chúng. Chúng Tăng đệ tử này của Thế Tôn đáng được hiến dâng, đáng được chào đón, đáng được cúng dường, đáng được bố thí, đáng được chấp tay, là vô thượng phước điền ở trên đời’. Khi các ông niệm nhớ đến chúng Tăng, này các tỳ-khưu, thì sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt’.

“Vì sao? Này các tỳ-khưu, Như Lai, bậc Ứng CúngChánh Biến Tri đã ly tham, ly sân, ly si, không nhát gan, không hoảng hốt, không hoảng sợ, không hoảng chạy.”[2]

Khi một bậc đã ly tham, ly sân, ly si thì không có một thế lực nào có thể uy hiếp, làm cho hoảng sợ được. Phần lớn chúng sanh bị tham, sân, si chi phối nên sợ đủ điều. Chúng ta luôn sợ sinh, sợ già, sợ bệnh, sợ chết, sợ ân ái chia lìa, sợ cô đơn buồn tủi,…hàng trăm mối lo sợ bủa vây con người nên tâm khởi lên bất an, hoảng hốt, lo sợ. Thành ra, việc tìm kiếm sự an nhiên tự tại giữa cuộc đời này trở nên rất cần thiết. Nhiều người tìm kiếm sự an nhiên không lo sợ bằng sự cầu nguyện, bằng những thú vui hay bằng những tình thương ân sủngTuy nhiên, càng tìm kiếm bao nhiêu thì nỗi sợ lo càng nhiều thêm bấy nhiêu. Vì sự tìm kiếm đó vẫn còn bị tam độc tham, sân, si chi phối. Bởi nó là triền cái và kiết sửTriền cái thì che đậykiết sử thì trói buộc. Quay trở về nương tựa ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng là chỗ nương tựa an ổn nhất trên cuộc đời này. Người con Phật tìm sự an vui từ bên trong chính mình, lấy lời Phật áp dụng để chế ngự tâm, loại bỏ dần tham lam, giận hờn và ngu muội, thì khi ấy tâm an nhiên như tảng đá kiên cố; hết buồn, giận, sợ, lo, vui trong niềm vui giải thoát.

Ghi chú:
[1] Cờ Phật giáo, https://vi.wikipedia.org/wiki/
[2] Thích Minh Châu, dịch, Tương Ưng bộ kinhKinh Đầu ngọn cờ, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, 2016, tr. 336-337. 
Báo Giác Ngộ số 1183
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 922)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1243)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 712)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 682)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 754)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 764)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 745)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 737)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 887)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 772)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 931)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 934)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 860)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 869)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 808)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 955)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 889)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 831)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 920)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 840)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 796)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 894)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 826)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1079)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 857)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 945)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1089)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1566)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1101)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1173)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1048)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 914)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 861)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 893)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 750)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1426)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1300)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1263)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1209)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1327)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1270)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1405)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1282)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1151)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1201)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1253)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1236)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1359)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1254)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant