Ngọn cờ là biểu tượngthiêng liêng của một tổ chức, đoàn thể, một quốc gia, một khu vực hay thế giới. Ngọn cờ mang ý nghĩa đặc thù được kết tinh từ sức mạnh của sự đoàn kết, biểu hiện nền độc lập chủ quyền của một quốc gia hay khu vực. Một quốc gia có một lá cờ riêng biệt thể hiện tính chủ quyền của quốc gia mình trên trường quốc tế. Có được ngọn cờ là phải đánh đổi cả mồ hôi xương máu, tâm sức và trí lực của cả cộng đồng. Do vậy, khi chào ngọn cờ là cúi chào một biểu tượngthiêng liêng của hồn thiêng sông núi. Từ đó khởi lên niềm tự hào để mọi người tiến bước đi lên, dấn thân bảo vệbảo vậtthiêng liêng cao quý ấy. Người phất cao ngọn cờ chính nghĩa là quyết tâmbảo vệ nền hòa bình, độc lập, tự do. Lá cờ có sức hiệu triệu lòng dân đi theo, tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết để chiến thắng thế lực ngoại xâm nhằm bảo vệ non sông gấm vóc.
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưng và đại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giớisử dụng. Sáu giải màu nằm dọc trên lá cờ đại diện cho sáu màu sắc của vầng hào quangtỏa ra từ đức Phật Thích-ca khi ngài đạt đượcGiác ngộ. Năm màu sắc đại diện cho ngũ căn, ngũ lực của Như Lai, đó là Tín. Tấn, Niệm, Định, Huệ.[1]
Ngọn cờ đức Phật biểu trưng cho sức mạnhnội tâm chiến thắng ma quân, xiển dương diệu pháp, cứu độquần sanh. Sự ra đời và chứng ngộđạo quả của đức Phật là dương cao ngọn cờ chánh pháp, chánh nhiếp tà pháp, dẹp trừ chướng ma, đưa đường dẫn lối cho chúng sanh đi đến bờ an vui giải thoát. Ngài xuất hiện trên cõi đời giống lên tiếng giống sư tử oai hùng, làm chúng ma khiếp sợ.
Có hai thế lực trên cuộc đời này, đó là thế lực ma và Phật. Nói cách khác là giữa cái thiện và cái ác. Thế lựctà ma là cái ác, khiến cho con người rơi vào u mê, đen tối, đi đến đọa lạc và khổ đau; trong khi thế lực Phật là ánh sáng chân lý, giác ngộ, giải thoát. Khi chúng ta bị thế lựcma đạo tấn công thì hãy hướng tâm đến ngọn cờ đức Phật thì sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược sẽ tiêu diệt.
Tương Ưng Bộ kinh, Kinh Đầu ngọn cờ, đức Phật dạy: “Thế Tôn trú ở Sāvatthi (Xá-vệ). Rồi Thế Tôn gọi các tỳ-khưu: “Này các tỳ-khưu.” “Thưa vâng, bạch Thế Tôn.” Các tỳ-khưu ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: “Thuở xưa, này các tỳ-khưu, một cuộc chiến dữ dội khởi lên giữa chư thiên và các asura (a-tu-la). Rồi thiên chủ Sakka (Đế-thích) gọi chư thiên ở cõi trờiTavatiṃsa (Tam thập tam) và nói: ‘Này các ông, khi các ông lâm chiến, nếu sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên; lúc ấy, các ông hãy nhìn nơi đầu ngọn cờ của ta. Khi các ông nhìn lên đầu ngọn cờ của ta, thì sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược sẽ tiêu diệt. “Nếu các ông không nhìn lên đầu ngọn cờ của ta, thời hãy nhìn lên đầu ngọn cờ của thiên vươngPajāpati. Khi các ông nhìn lên đầu ngọn cờ ấy, thì sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược cũng sẽ tiêu diệt. “‘Nếu các ông không nhìn lên đầu ngọn cờ của thiên vương Pajāpati, hãy nhìn lên đầu ngọn cờ của thiên vương Varuṇa … Nếu các ông không nhìn lên đầu ngọn cờ của thiên vương Varuṇa … Nếu các ông không nhìn lên đầu ngọn cờ của thiên vương Īsāna … Khi các ông nhìn lên đầu ngọn cờ ấy, thì sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược cũng sẽ tiêu diệt.”
“Này các tỳ-khưu, khi họ nhìn lên đầu ngọn cờ của thiên chủ Sakka, hay của thiên vương Pajāpati, hay của thiên vương Varuṇa, hay của thiên vương Īsāna, thì sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược được khởi lên có thể sẽ tiêu diệt mà cũng có thể sẽ không tiêu diệt. Vì cớ sao? Vì thiên chủ Sakka, thiên vương Varuṇa, thiên vương Pajāpati chưa đoạn diệt tham, chưa đoạn diệt sân, chưa đoạn diệt si, còn nhát gan, hoảng hốt, hoảng sợ, hoảng chạy.”
“Nhưng này các tỳ-khưu, Ta nói như sau: ‘Khi các ông đi vào rừng, đi đến gốc cây hay đi đến ngôi nhà trống, nếu sợ hãi, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, lúc ấy hãy niệm nhớ đến Ta: ‘Ngài là Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng SĩĐiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’ Khi các ông niệm nhớ đến Ta, này các tỳ-khưu, thì sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt.
“Nếu các ông không niệm nhớ đến Ta, hãy niệm nhớ đến Pháp: ‘Đây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thựchiện tại, có quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu’. Khi các ông niệm nhớ đến Pháp, này các tỳ-khưu, thì sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt’.
“Nếu các ông không niệm nhớ đến Pháp, hãy niệm nhớ đến chúng Tăng: ‘Chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là bậc thiện hạnh, chúng Tăngđệ tử của Thế Tôn là bậc trực hạnh, chúng Tăngđệ tử của Thế Tôn là bậc chánh hạnh; chúng Tăng của đệ tửThế Tôn là bậc như lý hạnh; tức là bốn đôi, tám chúng. Chúng Tăngđệ tử này của Thế Tôn đáng được hiến dâng, đáng được chào đón, đáng được cúng dường, đáng được bố thí, đáng được chấp tay, là vô thượng phước điền ở trên đời’. Khi các ông niệm nhớ đến chúng Tăng, này các tỳ-khưu, thì sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt’.
“Vì sao? Này các tỳ-khưu, Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đã ly tham, ly sân, ly si, không nhát gan, không hoảng hốt, không hoảng sợ, không hoảng chạy.”[2]
Khi một bậc đã ly tham, ly sân, ly si thì không có một thế lực nào có thể uy hiếp, làm cho hoảng sợ được. Phần lớn chúng sanh bị tham, sân, si chi phối nên sợ đủ điều. Chúng ta luôn sợ sinh, sợ già, sợ bệnh, sợ chết, sợ ân ái chia lìa, sợ cô đơn buồn tủi,…hàng trăm mối lo sợ bủa vây con người nên tâm khởi lên bất an, hoảng hốt, lo sợ. Thành ra, việc tìm kiếm sự an nhiêntự tại giữa cuộc đời này trở nên rất cần thiết. Nhiều người tìm kiếm sự an nhiên không lo sợ bằng sự cầu nguyện, bằng những thú vui hay bằng những tình thươngân sủng. Tuy nhiên, càng tìm kiếm bao nhiêu thì nỗi sợ lo càng nhiều thêm bấy nhiêu. Vì sự tìm kiếm đó vẫn còn bị tam độc tham, sân, si chi phối. Bởi nó là triền cái và kiết sử. Triền cái thì che đậy, kiết sử thì trói buộc. Quay trở về nương tựa ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng là chỗ nương tựa an ổn nhất trên cuộc đời này. Người con Phật tìm sự an vui từ bên trong chính mình, lấy lời Phật áp dụng để chế ngự tâm, loại bỏ dần tham lam, giận hờn và ngu muội, thì khi ấy tâm an nhiên như tảng đá kiên cố; hết buồn, giận, sợ, lo, vui trong niềm vui giải thoát.
Ghi chú:
[1] Cờ Phật giáo, https://vi.wikipedia.org/wiki/
[2] Thích Minh Châu, dịch, Tương Ưng bộ kinh, Kinh Đầu ngọn cờ, Viện Nghiên CứuPhật HọcViệt Nam, Nxb. Tôn giáo, 2016, tr. 336-337. Báo Giác Ngộ số 1183
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt độngPhật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
Thực hànhTịnh độ là đơn giản. Cách tu tập này không yêu cầuhành giả phải được học về tư tưởngPhật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
Thiền pháptỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.