Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chân NhưTrung Đạo

14 Tháng Giêng 202312:04(Xem: 1627)
Chân Như Là Trung Đạo

Chân NhưTrung Đạo

Nguyễn Thế Đăng

Luận Về Triết Lý “buông” Trong Nhà Phật


Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (MulamadhyamakakarikaCăn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ, mở đầu cho các đệ tử về sau lập thành Trung quán tông (Madhyamaka) chuyên giảng về tánh Không. Chẳng hạn như Nguyệt Xứng với Nhập trung luậnTrung đạo Bát nhã luận… Suốt cả Trung luận chỉ một lần nói đến chữ Trung hay (trung đạo).

Chúng nhân duyên sinh pháp
Ngã thuyết tức thị Không
Diệc vi thị Giả danh
Diệc thị Trung đạo nghĩa.
(Trung luận XXIV,18)

Pháp do các nhân duyên sanh
Ta nói tức là Không
Đó cũng là Giả danh
Cũng là nghĩa Trung đạo.

 

“We state that whatever is dependent arising. That is Emptiness. That is dependent upon convention. That itself is Middle path” (David J. Kalupahana dịch, trong cuốn The Philosophy of the Middle Way).

 

Trong 27 chương của Trung luận chỉ một lần nói đến Trung hay Trung đạo trong câu trên. Không, Giả (giả danh), Trung (Trung đạo) là ba phạm trù dùng để chỉ Thực Tại.

Trung luận của ngài Long Thọ (khoảng năm 150-250) có sau sự xuất hiện của các Kinh Bát nhã ba la mật (xuất hiện từ năm 50 trở đi), cho nên có thể nói rằng Luận của ngài Long Thọ dựa trên hệ thống Kinh Bát nhã ba la mật chuyên giảng về tánh Không. Ngài được xem là tác giả của bộ Luận Đại Trí Độ độ, giảng trọn bộ Kinh Đại Bát Nhã (Cưu Ma La Thập dịch). Theo sự phân định của Phật giáo Ấn - Tạng, hệ thống Kinh Bát nhã ba la mật là thời kỳ thuyết pháp thứ hai của Đức Phật (thời kỳ thứ ba là Kinh Pháp Hoa, Kinh Đại Bát Niết Bàn… là những Kinh giảng về Phật tánhbản tánh của tâm). Thế nên để tìm nghĩa của chữ Trung, chúng ta cần tìm trong Kinh, vì Luận là dựa trên Kinh để thành lập.

Trong bài kệ tán thán Phật, mở đầu Trung luận, ngài Long Thọ đã tóm tắt toàn bộ cuốn Luận: vì tất cả các pháp đều do nhân duyên sanh, nên không có tự tánhvô tự tánh, cho nên là tánh Không.

Chẳng sanh cũng chẳng diệt
Chẳng thường cũng chẳng đoạn
Chẳng một cũng chẳng khác
Chẳng đến cũng chẳng đi.
Tôi kính lễ lạy Phật
Vị thuyết giảng nhân duyên
Khéo diệt các hý luận
Bậc nhất trong các thuyết.

Không, hay tánh Không, được nói đến nhiều lần trong Luận. Chẳng hạn:

Hư dối vọng chấp thủ
Trong ấy có gì thủ
Phật nói sự như thế
Muốn khai thị nghĩa Không
XIII, 2

Các pháp có khác nhau
Biết đều vô tự tánh
Pháp vô tánh cũng không có
Nên tất cả pháp Không
XIII, 3

Nơi vô thường chấp thường
Đó gọi là điên đảo
Trong Không, không có thường
Chỗ nào có (điên) đảo thường?
XXIII, 13

Do vì có nghĩa Không
Tất cả pháp được thành
Nếu không có nghĩa Không
Tất cả ắt chẳng thành.
XXIV, 14.

Luận cũng nói những tính cách của tánh Không như vô sanhvô tự tánhbất khả đắcvô sở hữu…

Các pháp chẳng tự sanh
Cũng chẳng từ cái khác sanh
Chẳng phải cùng cả hai, chẳng phải không có nhân
Thế nên biết là vô sanh.
Trung luận I, 1

Về phạm trù Giả danh, Luận nhiều lần nói đến như huyễn như mộng…

Không ắt chẳng thể nói
Chẳng Không, chẳng thể nói
Cùng (cả hai) chẳng cùng (cả hai), chẳng thể nói
Chỉ theo giả danh mà nói.
XXII, 11

Sắc, thanh, hương, vị, xúc
Và pháp là sáu thứ
Đều Không, như sóng nắng, như mộng
Như thành Càn thát bà.
Trong sáu thứ như vậy
Nào có tịnh, bất tịnh.
Giống như người huyễn hóa
Cũng như bóng trong gương.
XXIII, 8, 9.

 

Hai phạm trù Không và Giả và những tính cách của chúng trong Trung luận đều có trong các bộ Bát nhã ba la mật. Nhưng phạm trù Trung, Trung đạo không thấy được giảng nghĩa trong Trung luận.

Nhưng Trung luận là gì? Trung có phải là một phạm trù riêng biệt với Không và Giả, hay Trung là Không và Giả? Không và Giả hợp lại tức là Trung? Nếu Trung luận chỉ chuyên dạy về tánh Không, tại sao không được đặt nhan đề là Không luận mà lại đặt nhan đề tên là Trung luận?

 

Trong Hồi tránh luận (Vigrahavyavartanikarika) phần kết của Luận là câu 70:

Không tự thể, nhân duyên
Tam nhất, Trung đạo thuyết
Ngã quy mạng lễ bỉ
Vô thượng đại trí huệ

                                                                   70

Không tự thể, Nhân Duyên
Trung Đạo, ba là một
Con quy mạng lễ Ngài
Đại trí huệ vô thượng

“I venerate the incompanable Buddha, who taught Emptiness, Dependent Origination and the Middle Way as one thing”.

Như thế Trung là một trong ba phạm trù Không, Giả, Trung hay Không, Duyên khởi, Trung. Nếu như Không, Giả nghiêng về phủ định thì chính trong Trung luận có những đoạn nghiêng về xác định, như một đặc tính của Đại thừa:

19.     Niết bàn và thế gian
Không có chút phân biệt
Thế gian cùng Niết bàn
Cũng không chút phân biệt
20.    Thực tế của niết bàn
Cùng với tế thế gian
Hai tế ấy như vậy
Không mảy may sai biệt
(Quán Niết bàn, XXV)

Thực tế, tế có thể dịch là thực tại, với nguyên nghĩa tiếng Sanskrit là “biên giới”. Biên giới của sanh tử cũng là biên giới của Niết bàn. Nói cách khác, sanh tử và Niết bàn trùng khít nhau, không hai, không khác.

Trong Trung luận, nhiều lần ngài Long Thọ nói đến “thật tướng”, và theo các học giả ngài đã khá nhiều lần trích dẫn Kinh Pháp Hoa, mà Kinh này thường nói đến “thật tướng của tất cả các pháp”.

7.      Chư pháp thật tướng giả
Tâm hành ngôn ngữ đoạn
Vô sinh diệc vô diệt
Tịch diệt như Niết bàn
8.      Nhất thiết thật, phi thật
Diệc thật diệc phi thật
Phi thật, phi phi thật
Thị danh chư phật pháp
9.      Tự tri bất tùy tha
Tịch diệt vô hý luận
Vô dị vô phân biệt
Thị tắc danh thật tướng.
10.    Nhược pháp tùng duyên sanh
Bất tức bất dị nhân
Thị cố danh thật tướng
Bất đoạn diệc bất thường. 

7.      Thật tướng của các pháp
Tâm hành ngôn ngữ dứt
Không sanh cũng không diệt
Tịch diệt như Niết bàn.
8.     Tất cả pháp đều thật, đều chẳng thật
Cũng thật cũng chẳng thật
Chẳng thật, chẳng phải chẳng thật
Đó là pháp chư Phật.
9.      Tự biết không theo người
Tịch diệt không hý luận
Không khác, không phân biệt
Đó gọi là thật tướng.
10.    Nếu pháp từ duyên sanh
Chẳng tức, chẳng khác nhân
Nên gọi là thật tướng

Chẳng đoạn cũng chẳng thường.

Chữ thật tướng này là dharmata (true nature, thật tánh), cũng được dịch từ tattvasyalaksanam (the characteristic of truth, tướng của chân lýthật tướng).

Thật tướng ấy được nói là “vị cam lồ”, một thực thể con người có thể kinh nghiệm được chứ không phải không có gì, trong câu kệ tiếp theo:

11.    Bất nhất diệc bất dị
Bất thường diệc bất đoạn
Thị danh chư Thế Tôn
Giáo hóa cam lộ vị.
Chẳng một cũng chẳng khác
Chẳng thường cũng chẳng đoạn
Gọi là vị cam lồ
Chư Thế Tôn giáo hóa.

 

Trong Kinh Pháp Hoa, “thật tướng của các pháp” được Đức Phật chỉ dạy là “Mười Như Thị”:

Pháp khó hiểu hy hữu đệ nhất mà Phật thành tựu ấy, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt tận cùng thật tướng của các pháp. Đó là các pháp: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, đầu cuối rốt ráo như vậy” (Phẩm Phương Tiện, thứ 2)

Mười Như Thị, Mười Như Vậy để nói lên tướng Như, tánh Như, Chân Như của tất cả các pháp. Kinh Đại Bát Nhã, mà Trung luận dựa vào đó để luận giảng, có hai phẩm chủ yếu nói về tánh Như, là phẩm Phật Mẫu và phẩm Đại Như.

Đức Phật biết rõ chúng sanh tướng Như, ngũ ấm tướng Như, các hành tướng Như… Chư Phật tướng Như đều là tướng Nhất Như, chẳng hai chẳng khác, chẳng tận chẳng hoại. Đây gọi là tất cả pháp tướng Như… Đức Phật biết rõ tất cả pháp tướng Như, chẳng riêng khác, chẳng phải chẳng Như. Vì đắc tướng Như như vậy nên Phật được gọi là Như Lai”.

 

Ba phạm trù chính của các Kinh Bát nhã ba la mật là KhôngGiả (như huyễn) và Như. Ba phạm trù của Trung luận là KhôngGiả, và Trung. Qua bài này, có thể kết luận rằng Trung chính là Như.

Điều này có thể được thấy rõ thêm khi Kinh Luận không chỉ nói Không mà nói Không – Bất Không như Luận Đại Thừa khởi tính và Kinh Đại Bát Niết BànĐại sư Trí Giả (538-597), sơ tổ tông Thiên Thai, cũng chia thành Không, Giả, Trung và Trung được gọi là Trung đạo đệ nhất nghĩa đế.

Và chính vì Trung là Chân Như nên Trung đạo tông hay Không tông có cùng mục đích với Duy thức tông hay Du già hành tông khi cả hai đều nhắm đến Chân Như (xem Thành duy thức luận của Bồ tát Thế Thân).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1209)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 938)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1256)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 724)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 694)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 765)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 773)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 758)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 751)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 905)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 787)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 946)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 950)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 877)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 882)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 814)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 966)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 899)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 837)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 935)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 858)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 807)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 907)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 843)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1107)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 872)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 958)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1100)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1572)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1113)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1183)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1059)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 922)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 872)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 916)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 762)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1442)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1317)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1280)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1221)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1335)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1286)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1425)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1305)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1168)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1210)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1273)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1253)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1365)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant