Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chân NhưTrung Đạo

14 Tháng Giêng 202312:04(Xem: 1472)
Chân Như Là Trung Đạo

Chân NhưTrung Đạo

Nguyễn Thế Đăng

Luận Về Triết Lý “buông” Trong Nhà Phật


Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (MulamadhyamakakarikaCăn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ, mở đầu cho các đệ tử về sau lập thành Trung quán tông (Madhyamaka) chuyên giảng về tánh Không. Chẳng hạn như Nguyệt Xứng với Nhập trung luậnTrung đạo Bát nhã luận… Suốt cả Trung luận chỉ một lần nói đến chữ Trung hay (trung đạo).

Chúng nhân duyên sinh pháp
Ngã thuyết tức thị Không
Diệc vi thị Giả danh
Diệc thị Trung đạo nghĩa.
(Trung luận XXIV,18)

Pháp do các nhân duyên sanh
Ta nói tức là Không
Đó cũng là Giả danh
Cũng là nghĩa Trung đạo.

 

“We state that whatever is dependent arising. That is Emptiness. That is dependent upon convention. That itself is Middle path” (David J. Kalupahana dịch, trong cuốn The Philosophy of the Middle Way).

 

Trong 27 chương của Trung luận chỉ một lần nói đến Trung hay Trung đạo trong câu trên. Không, Giả (giả danh), Trung (Trung đạo) là ba phạm trù dùng để chỉ Thực Tại.

Trung luận của ngài Long Thọ (khoảng năm 150-250) có sau sự xuất hiện của các Kinh Bát nhã ba la mật (xuất hiện từ năm 50 trở đi), cho nên có thể nói rằng Luận của ngài Long Thọ dựa trên hệ thống Kinh Bát nhã ba la mật chuyên giảng về tánh Không. Ngài được xem là tác giả của bộ Luận Đại Trí Độ độ, giảng trọn bộ Kinh Đại Bát Nhã (Cưu Ma La Thập dịch). Theo sự phân định của Phật giáo Ấn - Tạng, hệ thống Kinh Bát nhã ba la mật là thời kỳ thuyết pháp thứ hai của Đức Phật (thời kỳ thứ ba là Kinh Pháp Hoa, Kinh Đại Bát Niết Bàn… là những Kinh giảng về Phật tánhbản tánh của tâm). Thế nên để tìm nghĩa của chữ Trung, chúng ta cần tìm trong Kinh, vì Luận là dựa trên Kinh để thành lập.

Trong bài kệ tán thán Phật, mở đầu Trung luận, ngài Long Thọ đã tóm tắt toàn bộ cuốn Luận: vì tất cả các pháp đều do nhân duyên sanh, nên không có tự tánhvô tự tánh, cho nên là tánh Không.

Chẳng sanh cũng chẳng diệt
Chẳng thường cũng chẳng đoạn
Chẳng một cũng chẳng khác
Chẳng đến cũng chẳng đi.
Tôi kính lễ lạy Phật
Vị thuyết giảng nhân duyên
Khéo diệt các hý luận
Bậc nhất trong các thuyết.

Không, hay tánh Không, được nói đến nhiều lần trong Luận. Chẳng hạn:

Hư dối vọng chấp thủ
Trong ấy có gì thủ
Phật nói sự như thế
Muốn khai thị nghĩa Không
XIII, 2

Các pháp có khác nhau
Biết đều vô tự tánh
Pháp vô tánh cũng không có
Nên tất cả pháp Không
XIII, 3

Nơi vô thường chấp thường
Đó gọi là điên đảo
Trong Không, không có thường
Chỗ nào có (điên) đảo thường?
XXIII, 13

Do vì có nghĩa Không
Tất cả pháp được thành
Nếu không có nghĩa Không
Tất cả ắt chẳng thành.
XXIV, 14.

Luận cũng nói những tính cách của tánh Không như vô sanhvô tự tánhbất khả đắcvô sở hữu…

Các pháp chẳng tự sanh
Cũng chẳng từ cái khác sanh
Chẳng phải cùng cả hai, chẳng phải không có nhân
Thế nên biết là vô sanh.
Trung luận I, 1

Về phạm trù Giả danh, Luận nhiều lần nói đến như huyễn như mộng…

Không ắt chẳng thể nói
Chẳng Không, chẳng thể nói
Cùng (cả hai) chẳng cùng (cả hai), chẳng thể nói
Chỉ theo giả danh mà nói.
XXII, 11

Sắc, thanh, hương, vị, xúc
Và pháp là sáu thứ
Đều Không, như sóng nắng, như mộng
Như thành Càn thát bà.
Trong sáu thứ như vậy
Nào có tịnh, bất tịnh.
Giống như người huyễn hóa
Cũng như bóng trong gương.
XXIII, 8, 9.

 

Hai phạm trù Không và Giả và những tính cách của chúng trong Trung luận đều có trong các bộ Bát nhã ba la mật. Nhưng phạm trù Trung, Trung đạo không thấy được giảng nghĩa trong Trung luận.

Nhưng Trung luận là gì? Trung có phải là một phạm trù riêng biệt với Không và Giả, hay Trung là Không và Giả? Không và Giả hợp lại tức là Trung? Nếu Trung luận chỉ chuyên dạy về tánh Không, tại sao không được đặt nhan đề là Không luận mà lại đặt nhan đề tên là Trung luận?

 

Trong Hồi tránh luận (Vigrahavyavartanikarika) phần kết của Luận là câu 70:

Không tự thể, nhân duyên
Tam nhất, Trung đạo thuyết
Ngã quy mạng lễ bỉ
Vô thượng đại trí huệ

                                                                   70

Không tự thể, Nhân Duyên
Trung Đạo, ba là một
Con quy mạng lễ Ngài
Đại trí huệ vô thượng

“I venerate the incompanable Buddha, who taught Emptiness, Dependent Origination and the Middle Way as one thing”.

Như thế Trung là một trong ba phạm trù Không, Giả, Trung hay Không, Duyên khởi, Trung. Nếu như Không, Giả nghiêng về phủ định thì chính trong Trung luận có những đoạn nghiêng về xác định, như một đặc tính của Đại thừa:

19.     Niết bàn và thế gian
Không có chút phân biệt
Thế gian cùng Niết bàn
Cũng không chút phân biệt
20.    Thực tế của niết bàn
Cùng với tế thế gian
Hai tế ấy như vậy
Không mảy may sai biệt
(Quán Niết bàn, XXV)

Thực tế, tế có thể dịch là thực tại, với nguyên nghĩa tiếng Sanskrit là “biên giới”. Biên giới của sanh tử cũng là biên giới của Niết bàn. Nói cách khác, sanh tử và Niết bàn trùng khít nhau, không hai, không khác.

Trong Trung luận, nhiều lần ngài Long Thọ nói đến “thật tướng”, và theo các học giả ngài đã khá nhiều lần trích dẫn Kinh Pháp Hoa, mà Kinh này thường nói đến “thật tướng của tất cả các pháp”.

7.      Chư pháp thật tướng giả
Tâm hành ngôn ngữ đoạn
Vô sinh diệc vô diệt
Tịch diệt như Niết bàn
8.      Nhất thiết thật, phi thật
Diệc thật diệc phi thật
Phi thật, phi phi thật
Thị danh chư phật pháp
9.      Tự tri bất tùy tha
Tịch diệt vô hý luận
Vô dị vô phân biệt
Thị tắc danh thật tướng.
10.    Nhược pháp tùng duyên sanh
Bất tức bất dị nhân
Thị cố danh thật tướng
Bất đoạn diệc bất thường. 

7.      Thật tướng của các pháp
Tâm hành ngôn ngữ dứt
Không sanh cũng không diệt
Tịch diệt như Niết bàn.
8.     Tất cả pháp đều thật, đều chẳng thật
Cũng thật cũng chẳng thật
Chẳng thật, chẳng phải chẳng thật
Đó là pháp chư Phật.
9.      Tự biết không theo người
Tịch diệt không hý luận
Không khác, không phân biệt
Đó gọi là thật tướng.
10.    Nếu pháp từ duyên sanh
Chẳng tức, chẳng khác nhân
Nên gọi là thật tướng

Chẳng đoạn cũng chẳng thường.

Chữ thật tướng này là dharmata (true nature, thật tánh), cũng được dịch từ tattvasyalaksanam (the characteristic of truth, tướng của chân lýthật tướng).

Thật tướng ấy được nói là “vị cam lồ”, một thực thể con người có thể kinh nghiệm được chứ không phải không có gì, trong câu kệ tiếp theo:

11.    Bất nhất diệc bất dị
Bất thường diệc bất đoạn
Thị danh chư Thế Tôn
Giáo hóa cam lộ vị.
Chẳng một cũng chẳng khác
Chẳng thường cũng chẳng đoạn
Gọi là vị cam lồ
Chư Thế Tôn giáo hóa.

 

Trong Kinh Pháp Hoa, “thật tướng của các pháp” được Đức Phật chỉ dạy là “Mười Như Thị”:

Pháp khó hiểu hy hữu đệ nhất mà Phật thành tựu ấy, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt tận cùng thật tướng của các pháp. Đó là các pháp: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, đầu cuối rốt ráo như vậy” (Phẩm Phương Tiện, thứ 2)

Mười Như Thị, Mười Như Vậy để nói lên tướng Như, tánh Như, Chân Như của tất cả các pháp. Kinh Đại Bát Nhã, mà Trung luận dựa vào đó để luận giảng, có hai phẩm chủ yếu nói về tánh Như, là phẩm Phật Mẫu và phẩm Đại Như.

Đức Phật biết rõ chúng sanh tướng Như, ngũ ấm tướng Như, các hành tướng Như… Chư Phật tướng Như đều là tướng Nhất Như, chẳng hai chẳng khác, chẳng tận chẳng hoại. Đây gọi là tất cả pháp tướng Như… Đức Phật biết rõ tất cả pháp tướng Như, chẳng riêng khác, chẳng phải chẳng Như. Vì đắc tướng Như như vậy nên Phật được gọi là Như Lai”.

 

Ba phạm trù chính của các Kinh Bát nhã ba la mật là KhôngGiả (như huyễn) và Như. Ba phạm trù của Trung luận là KhôngGiả, và Trung. Qua bài này, có thể kết luận rằng Trung chính là Như.

Điều này có thể được thấy rõ thêm khi Kinh Luận không chỉ nói Không mà nói Không – Bất Không như Luận Đại Thừa khởi tính và Kinh Đại Bát Niết BànĐại sư Trí Giả (538-597), sơ tổ tông Thiên Thai, cũng chia thành Không, Giả, Trung và Trung được gọi là Trung đạo đệ nhất nghĩa đế.

Và chính vì Trung là Chân Như nên Trung đạo tông hay Không tông có cùng mục đích với Duy thức tông hay Du già hành tông khi cả hai đều nhắm đến Chân Như (xem Thành duy thức luận của Bồ tát Thế Thân).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1254)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1564)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1293)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1207)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1236)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1322)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1466)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1390)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1350)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1214)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1321)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1079)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1742)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1302)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1369)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2589)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1375)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1546)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1439)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 1819)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1382)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1599)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1806)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2003)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1427)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2428)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1562)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1737)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1682)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1406)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2181)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1608)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1656)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1541)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 1905)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 1877)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2027)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1521)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 1857)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1541)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1547)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1691)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1690)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1385)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1552)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 1891)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1634)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2162)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1529)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1553)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant