Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thanh Tao Như Trà

19 Tháng Giêng 202308:57(Xem: 1432)
Thanh Tao Như Trà

Thanh Tao Như Trà

Thích Trung Hữu


tra


Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng. Như câu nói sau đây: “Quan môn thất kiện sự, sài, mễ, du, diêm, tương, thố, trà”. Nghĩa là trong nhà lúc nào cũng phải có 7 thứ là: củi, gạo, dầu, muối, tương, giấm, trà. Uống trà không chỉ là thói quen “Ăn xong uống một chén trà” mà còn là một truyền thống, một nét văn hóa “khách đến chơi nhà nhất định phải pha trà tiếp đãi” đã có từ lâu đời của người Việt ta. Và nhất là vào những dịp Tết đến thì trà càng không thể thiếu trong câu chuyện ngày xuân.

Có lần tôi tham dự cuộc thi viết về trà. Điều đặc biệt của cuộc thi này là nhuận bút và giải thưởng đều trả bằng trà. Khi cầm những gói trà được gửi từ Ban Tổ chức, tuy là giá trị vật chất không đáng bao nhiêu, nhưng sao tôi thấy vui lạ. Có lẽ do tôi nghĩ rằng đây không phải là trà bình thường mà là trà nhuận bút, tức là trà của những người hiểu và yêu trà. Tôi thỉnh thoảng cũng có viết bài đăng báo. Nhưng sao khi nhận nhuận bút bằng tiền, mặc dù cũng vui, nhưng niềm vui khi nhận nhuận bút bằng trà rất lạ, cứ như cung đàn ngân nga, rộn rã mãi trong lòng.

Tôi coi những gói trà nhuận bút đó còn quý hơn cả nhuận bút bằng tiền. Tôi vui là vì trong mối tương giao này mọi thứ không dùng đồng tiền để đo lường, để trao đổi, mà chỉ có những giá trị tinh thần thanh cao, trong sáng. Tôi có lần nói vui với huynh đệ rằng, ai phát minh ra tiền chính là tội nhân thiên cổ vì đã đưa nhân loại vào vòng tội lỗi, làm suy thoái đạo đức và bào mòn các giá trị nhân văn. Nhuận bút bằng trà, trong trường hợp này, là nhuận bút cao nhất, là sự kính trọng nhất đối với tác giả. Vì nếu trả bằng tiền thì coi thường trà quá. Trà sẽ có mùi tiền, và như vậy thì mùi vị của trà đã nhạt mất rồi, biến đổi mất rồi, trà sẽ không còn ngon nữa. Trả nhuận bút bằng trà phải chăng hàm ý rằng chúng ta hãy yêu trà bằng tình yêu thuần khiết thanh cao, và hãy tỉnh táo trước sự cám dỗ của cuộc đời, mà cụ thể là tiền bạc.

Vâng, bản thân trà là sự tỉnh thức. Tương truyền, có một lần trong khi đang ngồi thiền, Tổ Bồ Đề Đạt Ma bỗng ngủ gục. Ngài bực quá liền cắt mí mắt cho tỉnh ngủ. Mí mắt ấy rơi xuống đất và mọc lên thành cây được gọi là trà. Lá của cây ấy có tác dụng chống buồn ngủ, làm cho tinh thần tỉnh táo. Từ đó những người ngồi thiền thường hái lá trà uống để được tỉnh táo khi ngồi thiền. Có lẽ đây chỉ là truyền thuyết để giải thích tính “tỉnh thức” của cây trà chứ các nhà khảo cổ học phát hiện trà đã có hàng ngàn năm trước rồi, ở nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Trong lá trà có chứa hàm lượng caffeine rất cao nên giúp cho người uống trà có được đầu óc tỉnh táotâm trí sáng suốt. Cho nên tôi nghĩ rằng câu chuyện trên được viết ra với hàm ý nói về công dụng “thức tỉnh” của cây trà, cũng như mối liên hệ giữa trà và thiền hơn là sự thật. Trà làm cho ta tỉnh táo và thiền làm cho ta tỉnh thức, và cả hai có mối liên hệ mật thiết với nhauTuy hai mà một. Có lẽ vì vậy mà người Nhật coi thiền và trà là một. Ngày nay các nhà khoa học đã chứng minh chất theanine là một amino acid chỉ tìm thấy trong cây trà. Chất theanine kích thích hoạt động của alpha sóng não. Làn sóng alpha này xảy ra khi chúng ta tỉnh táo và thư giãn. Và thật thú vị là người ta cũng thấy ở những người có kinh nghiệm về thiền cũng có hiện tượng làn sóng alpha này ở trong não.

Khi người ta nói “Thiền trà nhất vị” chính là muốn nói đến tinh thầný chí của việc uống trà. Nếu ta không hiểu về thiền, không ngộ được thiền ý thì khi uống trà ta sẽ không cảm nhận được sự đồng nhất giữa trà và thiền. Khi uống trà lòng phải tỉnh, tinh thần phải thư thái, từ từ cảm nhận hương vị của chén trà để đưa lòng mình hòa vào cái tĩnh lặng, bình yên của vũ trụ bao la. Thiền và trà đều chung một mục đích, đó là tìm đến sự thăng hoa, thuần khiết và nhất là sự tỉnh thức của tâm hồn. Giữa cuộc sống xô bồ ngày nay, tỉnh thức là vô cùng cần thiết. Sống tỉnh thức là duy trì ý thức trong từng giây phút hiện tại trên mỗi công việc mà mình đang làm, không để tâm bận bịu với quá khứviển vông mơ tưởng đến tương lai. Tỉnh thức để biết rõ những gì đang diễn ra với mình và cuộc sống quanh mình. Tỉnh thức để tâm ý được minh mẩn để có được những quyết định sáng suốt để thành công và hạnh phúc hơn trong cuộc sống. Tỉnh thức để không bị cám dỗ bởi vị ngọt của ngũ dụclục trần vậy.

Với cái nhìn tỉnh thức ta thấy trà không chỉ là trà mà trà còn bao hàm những yếu tố không phải trà nữa. Theo giáo lý Duyên sinh của Phật giáo thì các hiện tượng thế gian hình thành là do nhiều điều kiện, nhiều duyên kết hợp lại. “Một là tất cả, tất cả là một”. Điều này rất thú vị khi ta ứng dụng vào việc uống trà. Ly trà mà ta đang uống không phải chỉ là ly trà mà ly vũ trụ, ly đất trời, ly nhân sinh, vì trong ly trà đó có đất, nước, không khí, có ánh nắng, ánh trăng, có sương mai, có người hái trà, có cả 4 mùa xuân hạ thu đông…, cũng như không biết bao nhiêu là câu chuyện vui buồn của nhân tình thế thái xung quanh những yếu tố đó.

“Ai hay trong một tách trà
Có hồ sen ngát mượt mà đưa hương”.

Và dĩ nhiên là phải có bản thân người đang thưởng thức trà là ta đây nữa. Ta là một phần của vũ trụ cũng như vũ trụ chứa đựng trong ta. Thấy được điều này ta thấy yêu thương đất trời, yêu thương mọi người và vạn vật hơn. Vì họ là một phần không thể thiếu trong ta. Ta không thể sống nếu thiếu họ. Họ tốt thì ta mới tốt. Và ta tốt ta cũng góp phần làm cho thế giới tốt hơn. Khi uống trà, nước trà đi vào cơ thể ta và ta với trà hòa lại làm một, trong trà có ta, và trong ta có trà, có vũ trụ đất trời, có tình người tình đời. Tất cả đều được chứa đựng trong một ngụm trà buổi sớm mai. Thật là vi diệu biết bao!

Uống trà còn là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao. Thú vui không thanh cao là thú vui thiên về vật chấtchạy theo tình tiền danh lợitranh giành được mất hơn thua; nó bắt nguồn và cũng là nguyên nhân tạo ra sự ích kỷ và kết quả là đưa đến khổ đau cho mình và người khác. Còn thú vui thanh cao thì thiên về tinh thần, tình cảm, không ích kỷ tranh giành mà là chia sẻ. Càng chia sẻ thì niềm vui càng phong phú. Cho nên uống trà phải có bạn, trà tam rượu tứ. Nói uống trà là một thú vui thanh tao, bao hàm hai ý nghĩa. Một là bản thân việc uống trà là thanh cao và hai là uống trà làm cho tâm hồn người ta trở nên thanh cao. Rượu làm cho người ta say, tiền làm cho người ta mê, địa vị và danh tiếng làm cho tâm hồn người ta đen tối và gây ra tội lỗi; còn uống trà chỉ làm cho tâm hồn người ta tỉnh táo và thánh thiện hơn mà thôi.

Từ xưa đến nay có rất nhiều câu chuyện về trà nhưng chưa thấy có câu chuyện nào nói rằng người ta uống trà rồi gây ra tội lỗi cả, mà chỉ có những câu chuyện về sự cao quý của trà mà thôi. Đó là sự tinh tế trong Những chiếc ấm đất, là niềm vui bình dị nhưng thanh tao trong Chén trà trong sương sớm của Nguyễn Tuân, hay tách trà của Thiền sư Triệu Châu mời “uống trà đi” để nhắc nhở khách thiền hãy quay về với thực tại đang là, và câu thơ của văn nhân tài hoa Tô Đông Pha thời Bắc Tống “Trà, kính trà, kính hương trà” để khuyên mọi người không nên trọng phú khinh bần hoặc thấy người sang bắt quàng làm họ. Ngoài ra còn có không biết bao nhiêu là triết lý nhân sinh liên quan đến trà, chẳng hạn như: “Cuộc sống cũng giống như cách pha trà! Hãy đun sôi cái Tôi của bạn, làm bay hơi mọi Lo Lắng, pha loãng mọi Buồn Phiền, lọc đi mọi Sai Lầm, và bắt đầu thưởng thức sự Hạnh Phúc”. Khoa học còn chứng minh rằng trà rất tốt cho sức khỏe, như chống lão hóa và ngăn ngừa nhiều bệnh tật. Cho nên người xưa đã đúc kết công dụng của trà qua bài thơ sau:

Bán dạ tam bôi tửu,
Bình minh sổ tràn trà.
Nhất nhật cứ như thử.
Lương y bất đáo gia.

Nghĩa là:

Nửa đêm ba chén rượu
Sáng sớm một tuần trà
Mỗi ngày cứ như thế
Thầy thuốc không đến nhà.

“Nhất bôi xuân lộ tạm lưu khách, lưỡng dịch thanh phong kỷ dục Tiên”. Nghĩa là: Một chén trà xuân tạm giữ khách, một cuộc sống thanh bạch làm người ta muốn trở thành tiên. Trà không chỉ là thức uống tốt cho sức khỏe mà còn hàm chứa nhiều ý nghĩa và triết lý nhân sinh sâu sắc. Khi Tết đến, người ta mua những loại trà thật ngon để tặng nhau, và cùng với các loại bánh mứt, cùng nhau thưởng thức chén trà thơm mát như nhắc nhở nhau hãy sống mạnh khỏetỉnh thức và thanh tao… như trà.

Thích Trung Hữu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 782)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 750)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 766)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 742)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 793)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 955)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 991)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 926)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 748)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 758)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1287)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1166)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1133)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1086)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1150)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1031)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1124)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1236)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1132)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1206)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1194)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1171)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1154)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1142)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1174)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1286)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1171)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant