Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bạn Trà

23 Tháng Giêng 202313:15(Xem: 1764)
Bạn Trà

Bạn Trà

Thích Trung Hữu

tra 1


Tôi uống trà từ khi tôi còn rất nhỏ, hình như chưa được mười tuổi, thật ra là uống ké, hay nói đúng hơn là uống trà dư của ba tôi. Ba tôi uống trà mỗi ngày, một ngày ít nhất một bình vào buổi sáng. Ngày nào có khách tới chơi thì nhiều bình. Bình trà là loại bình lớn bằng sành, được giữ ấm trong cái vỏ làm bằng vỏ trái dừa khô. Đến tối má tôi kiểm tra bình trà, nếu còn thì bà lấy uống, nói là bỏ uổng. Và bà cũng đưa cho tôi uống, bảo, “Con uống đi, trà vẫn còn ấm nè, ngon lắm”. Đó là loại trà con dơi hoặc trà bánh ú vì bao trà in hình con dơi và có hình dáng như cái bánh ú. Một gói như vậy pha được chừng hai ba bình. Mùi vị có lẽ giống như trà lài bây giờ.

Khi tôi đi học đại học ở Đà Lạt thì tôi uống trà thường xuyên hơn. Vì Đà Lạt lạnh nên tôi uống trà cho ấm. Từ khi tôi đi học ở Ấn Độ, tôi lại càng uống trà nhiều hơn nữa. Lần đầu tiên xa quê hương đất nước như vậy nên rất buồn và nhớ người thân. Và thế là đem trà ra uống.
Trà Việt Nam chính hiệu, mang từ Việt Nam qua. Người Ấn không uống trà xanh như mình mà họ uống trà sữa, gọi là Chai, là hỗn hợp của trà đen, sữa và các loại gia vị khác. Tôi mời những người bạn Ấn Độ thưởng thức trà xanh thì họ không uống được, cho là đắng. Và không biết từ khi nào, trà trở thành người bạn không thể thiếu của tôi. Một người bạn trung thành, chung thủy và lúc nào cũng có mặt khi tôi cần. Nếu lúc đó mà không có trà làm bạn, tôi không biết mình có thể “tồn tại” nỗi những ngày đầu xa xứ như vậy hay không nữa. Hơn nữa, ở Ấn Độmùa đông rất lạnh, lạnh hơn Đà Lạt nhiều, ở trong phòng phải có lò sưởi mới chịu nỗi. Nhưng đối với tôi, đó lại là dịp rất tốt để thưởng thức trà, nhất là buổi sáng và buổi tối. Tôi bật lò sưởi lên, rồi pha bình trà nóng, thường thì một mình, nhưng cũng có khi có vài huynh đệ nữa đến chơi, vừa nhâm nhi chén trà, lại nghe mùi thơm hoa sữa len lén bay vào. Sau này học xong rồi về Việt Nam, tôi thỉnh thoảng vẫn nhớ cái cảm giác đó, một chút cô đơn nhưng thật bình yên và hạnh phúc vô cùng!

Cũng không biết từ khi nào, trà cũng trở thành nguồn cảm hứng cho mọi sáng tác của tôi. Khi nào muốn suy nghĩ hay sáng tác cái gì thì tôi đều phải uống trà. Không có trà thì không suy nghĩ tốt được. Khi chuẩn bị viết bài này thì tôi đã pha sẳn một bình trà rồi. Tôi rót trà vào ly đặt kế bên laptop, vừa thưởng thức, vừa sáng tác. Trà càng ngon thì tư tưởng càng được thăng hoa. Tôi thích uống loại trà búp hay trà nõn, mà phải tự nhiên hoàn toàn chứ không pha ướp bất cứ thứ gì, kể cà ướp nhân sâm như trà King. Trà rót ra nước phải xanh trong, có mùi thơm nhẹ nhàn thoang thoảng và vị thì hơi đắng chát nhưng có cái hậu ngọt ngọt sau khi uống qua khỏi cổ họng. Tôi có dịp thưởng thức trà của một số nước như Nhật, Tích Lan, Anh… thấy rằng trà Việt Nam là ngon nhất.

Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao. Thú vui không thanh cao là thú vui nghiên về vật chấtchạy theo tình tiền danh lợitranh giành được mất hơn thua; nó bắt nguồn và cũng là nguyên nhân của ích kỷ và kết quả là đưa đến khổ đau cho mình và người khác. Còn thú vui thanh cao thì nghiên về tinh thần, tình cảm, không ích kỷ tranh giành mà là chia sẻ. Càng chia sẻ thì niềm vui càng phong phú. Cho nên uống trà phải có bạn, còn làm thơ phải có người thưởng thức là vậy.

Nói uống trà là một thú vui thanh cao, tao nhã, bao hàm hai ý nghĩa. Một là bản thân việc uống trà là thanh tao và hai là uống trà làm cho tâm hồn người ta trở nên thanh tao. Rượu làm cho người ta say, tiền làm cho người ta mê, địa vị và danh tiếng làm cho tâm hồn người ta đen tối và gây ra tội lỗi; còn uống trà chỉ làm cho tâm hồn người ta tỉnh táo và thánh thiện hơn mà thôi. Từ xưa đến nay có rất nhiều câu chuyện về trà nhưng chưa thấy có câu chuyện nào nói rằng người ta uống trà rồi gây ra tội lỗi, mà chỉ có những câu chuyện về sự cao quý của trà mà thôi, như trong truyện Những chiếc ấm đấtChén trà trong sương sớm của nhà văn Nguyễn Tuân. Ngoài ra còn có không biết bao nhiêu là triết lý nhân sinh liên quan đến trà như triết lý sau đây chẳng hạn: “Cuộc sống cũng giống như cách pha trà! Hãy đun sôi cái Tôi của bạn, làm bay hơi mọi Lo Lắng, pha loãng mọi Buồn Phiền, lọc đi mọi Sai Lầm, và bắt đầu thưởng thức sự Hạnh Phúc”. Bản thân tôi lúc cảm hứng cũng có viết vài bài thơ về trà, như bài thơ sau đây:

Không ham địa vị giàu sang
Chỉ mong cuộc sống bình an mỗi ngày
Tiền vô rĩ rã đủ xài
Trà ngon đủ uống bạn bè đủ chơi
Khi buồn đi quét lá rơi
Khi vui đọc sách thảnh thơi tâm hồn
Tham nhiều thì khổ càng nhiều
Thôi tham ít ít còn yêu mến đời
Công danh dù có bằng trời
Không bằng một tiếng... bạn ơi uống trà.

Giờ thì tôi uống trà gần như cả ngày. Mọi người xung quanh tôi nói vui rằng mai mốt tôi chết khỏi liệm bằng xác trà vì toàn thân tôi đều là trà rồi. Có lẽ tôi đã nghiện trà. Nghiện thì không tốt rồi. Nhưng so với các thứ nghiện khác thì nghiện trà không tác hại bằng. Huống chi khoa học chứng minh rằng trà rất tốt cho sức khỏe, như chống lão hóa… Thảo nào ai nhìn tôi cũng nói rằng tôi trông trẻ hơn tuổi rất nhiều. Mà tôi cũng thấy vậy nữa… mới ghê chứ.

Thích Trung Hữu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 786)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 688)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 719)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 705)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 797)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 939)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1409)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 957)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 999)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 751)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 764)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 628)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1293)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1170)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1143)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1233)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1159)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1035)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1156)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1126)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1241)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1196)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1174)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1750)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1148)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1178)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1288)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1174)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant