Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trí TuệYếu Tố Tiên Quyết Của Người Xuất Gia

16 Tháng Ba 202319:11(Xem: 2600)
Trí Tuệ Là Yếu Tố Tiên Quyết Của Người Xuất Gia
Trí TuệYếu Tố Tiên Quyết Của Người Xuất Gia

Thích Nữ Chơn Khương

buddhism

TUỆ CĂNTỐI THƯỢNG

Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ. Người xuất gia là người thực tập đời sống ly dục, lặng lẽ lội ngược dòng của trần thế, đó là cả một cuộc đấu tranh nội tâm đầy oanh liệt mà họ là những dũng sĩ tuyệt vời vì đã, đang và sẽ nỗ lực đánh bại những cám dỗ dục lạc của thế gian cùng tất cả phiền não ngủ ngầm trong tâm thức. Con đường đó tuy vô vàn thử thách, khó khăn nhưng những Sa môn Thích tử vẫn phát nguyện trọn đời đi theo con đường của đức Như Lai “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”.

Trong Kinh Sala Đức Phật có dạy rằng: “ Này các Tỳ kheo, ví như trong các loài bàng sanh, con sư tử – vua các loài thú được xem là tối thượng, tức là về sức mạnh, tốc lực và dõng mãnh. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, trong các pháp thuộc phần giác ngộ, tuệ căn được xem là tối thượng, tức là về giác ngộ” [1]. Thật vậy, để đạt đến sự giác ngộ giải thoát thì trí tuệ được xem là tối thượng, cũng như trong Bát chánh đạo, chánh kiến được xếp đầu tiên. Bởi lẽ phải có cái nhìn và sự nhận biết một cách đúng đắn, không bị phong tục tập quán, thành kiến xã hội, dục vọng ngăn che làm sai lạc thì chúng ta mới thực hành đúng con đường chánh pháp của Đức Thế Tôn. Và trong bài Kinh Ánh sáng, Đức Phật cũng đề cập đến ánh sáng trí tuệ như sau: “Này các Tỳ kheo, có bốn loại ánh sáng. Thế nào là bốn? Ánh sáng mặt trăng, ánh sáng mặt trời, ánh sáng ngọn lửa và ánh sáng trí tuệ. Và này các Tỳ kheo, loại tối thượng trong bốn loại ánh sáng là ánh sáng trí tuệ” [2].

Mỗi hành giả tu học phải có cái thấy biết đúng như thật về bản chất của các pháp là duyên sinh để cố gắng thúc liễm thân tâm bằng giới hạnh, phòng hộ 6 căn khi tiếp xúc với 6 cảnh, sống chánh niệm tỉnh giác thì mới xứng đáng là đệ tử của Thế Tôn. Tuy con đường này không hề dễ dàng gì nhưng chúng ta hãy trân trọng ngay trong kiếp sống này để tu tập, vì đây là cơ hội quý báu cho việc thực hành thiện pháp (kusala dhamma).

Trí tuệ là chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa giải thoát. Và để có được trí tuệ đó là một quá trình thực tu thực chứng, đây được ví như tiến trình tiêu hoá thức ăn, nhờ quá trình tiêu hoá này mà trí tuệ chúng ta được sanh khởi và thấy rõ thực tướng của vạn pháp như chúng đang là: khổ – vô thườngvô ngã và không bị ngọn lửa của ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thuỳ) trói buộc, thiêu đốt và chi phối thân tâm. Từ đó, chúng ta mới xa lìa, đoạn tận được khổ đau trong vòng sinh tử. Chính vì lẽ đó, Đức Phật dạy hàng đệ tử hãy lấy trí tuệ làm sự nghiệp của người xuất gia và có 3 loại tuệ (paññā) được đề cập trong Trường Bộ Kinh như sau: 

Tư tuệ (Cintāmayā paññā)

trí tuệ phát sinh từ điều tự mình suy tư. Trong chú giải Aṭthakathā có giải thích rằng, trí tuệ phát sanh do tự mình suy tư mà không do nghe, do thấy, do học từ người khác, liên hệ đến nghiệp và quả của nghiệp, liên hệ đến trí tuệ về Tứ đế, hoặc liên hệ đến tam tướng của ngũ thủ uẩn trong khi làm việc, học tập và nghiên cứu cho cả người tại gia lẫn xuất gia.

Văn tuệ (Sutamayā paññā)

trí tuệ có được do nghe, do thấy, do học từ người khác, liên hệ đến nghiệp và quả của nghiệp, liên hệ đến trí tuệ về Tứ đế, hoặc liên hệ đến tam tướng của ngũ thủ uẩn trong khi làm việc, học tập và nghiên cứu

Tu tuệ (Bhāvanāmayā paññā)

trí tuệ phát sanh trong quá trình từ lúc quán xét tam tướng của ngũ thủ uẩn khi tu tập thiền minh sát (vippassana bhavana) để thấy rõ hiện trạng sanh và diệt của các hiện tượng tâm và vật lý (nāma rūpa) cho đến khi đạt được trí đạo (magga paññā).

TỲ KHEO LÀ NGƯỜI THỪA TỰ PHÁP CỦA NHƯ LAI

Hơn nữa, một vị Sa môntrí tuệ là người phải tâm tâm niệm niệm luôn ghi nhớ lời di huấnĐức Phật đã dạy trước khi Ngài nhập Niết bàn là: Vị Tỳ kheo phải lấy Pháp (Dhamma) và Luật (Vinaya) làm thầy, phải y cứ vào Pháp và Luật lấy đó làm tài sản, làm hành trang quý báu của người xuất gia, chứ không phải lấy của cải vật chất của thế gian làm tài sản. Vì chúng chỉ là vật ngoài thân, nó là rắn độc dẫn chúng sanh luân hồi trong các cõi. “Này các Tỳ kheo, hãy là người thừa tự Pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật. Ta có lòng thương tưởng các Ngươi và Ta nghĩ: “Làm sao những đệ tử của Ta là những người thừa tự Pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật?” [3]. 

Trong Kinh Sala Đức Phật có dạy rằng: “ Này các Tỳ kheo, ví như trong các loài bàng sanh, con sư tử – vua các loài thú được xem là tối thượng, tức là về sức mạnh, tốc lực và dõng mãnh. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, trong các pháp thuộc phần giác ngộ, tuệ căn được xem là tối thượng, tức là về giác ngộ”.

Với mục đích xuất gia là tìm cầu sự giác ngộgiải thoát, cho nên Đức Phật đã hướng dẫn các đệ tử của Ngài sống đời sống tịch tĩnh, tránh xa những nơi náo nhiệt, tìm nơi thanh vắng để tu tập. Lấy tinh thần “thiểu dục tri túc” làm nguyên tắc cho đời sống Sa môn phạm hạnh, dùng Bát chánh đạo làm kim chỉ nam [chánh kiến (sammā ditthi), chánh tư duy (sammā sankappa), chánh ngữ (sammā vācā), chánh nghiệp (sammā kammanta), chánh mạng (sammā ājīva), chánh tinh tấn (sammā vāyāma), chánh niệm (sammā sati), chánh định (sammā samādhi)] và Tam vô lậu học [giới (silā), định (samādhi), tuệ (paññā)], tứ Diệu đế làm nền tảng cốt yếu để tu học [khổ đế (dukkha sacca): cần phải thấy, tập đế (dukkha samudaya sacca): cần được đoạn trừ, diệt đế (dukkha nirodha sacca): cần phải chứng ngộđạo đế (dukkha nirodhamagga sacca): cần phải thực hành)].

Ngoài ra, trong tam vô lậu học thì chỉ có Tuệ mới có công năng đoạn trừ mọi phiền não (kilesa) và cắt đứt được vòng sanh tử luân hồi. Còn Giới là nếp sống đạo đức phạm hạnh, là nền tảng căn bản cho Định và Định là nền tảng thiết yếu và phương tiện để tiến sâu vào Tuệ giác. Cho nên phương châm tu học chính của mỗi người xuất gia là “Duy Tuệ Thị Nghiệp” tức lấy Trí tuệ làm tài sản cao thượng của Sa môn thì mới xứng đáng trở thành người kế thừa mạng mạch Phật pháp của đức Như Lai.

Bên cạnh đó, mỗi hành giả tu học phải có cái thấy biết đúng như thật về bản chất của các pháp là duyên sinh để cố gắng thúc liễm thân tâm bằng giới hạnh, phòng hộ 6 căn khi tiếp xúc với 6 cảnh, sống chánh niệm tỉnh giác thì mới xứng đáng là đệ tử của Thế Tôn. Tuy con đường này không hề dễ dàng gì nhưng chúng ta hãy trân trọng ngay trong kiếp sống này để tu tập, vì đây là cơ hội quý báu cho việc thực hành thiện pháp (kusala dhamma). Hãy tập buông bỏ mọi thứ vì nếu cứ chấp chặt và dính mắc đến ngũ dục thì e rằng đường sanh tử còn dài, phải nỗ lực hết mình để đoạn tận phiền não, đem đến sự an lạc thanh tịnh giải thoát ngay kiếp sống hiện tại cũng như trong những kiếp sống vị lai. Đây chính là mục đích rốt ráo của mỗi người con Phật. 

KẾT LUẬN

Đạo Phậtđạo trí tuệ giúp chúng ta tự hoàn thiện nhân cách của bản thân, tiến tu đạo nghiệp hướng đến sự tịch tĩnh, an lạcgiải thoát Niết Bàn (Nibbāna). Và Trí tuệ được ví như chiếc bè phương tiện đưa chúng sanh từ bến bờ vô minh sang bến bờ giải thoát, từ phàm đến thánh. Người xuất gia để xứng đáng được gọi là “Sứ giả Như Lai” tức người mang trên mình sứ mạng hoằng truyền Phật pháp cứu độ chúng sinh thì phải phát huy được sự nghiệp trí tuệ, vì chỉ có trí tuệ thì mới giúp tất cả chúng sanh thoát ly khỏi tham dục, chấm dứt mọi khổ đau của vòng tử sinh luân hồi.

 

Chú thích:

[1] Tương Ưng Bộ V, Chương 4, Phẩm 6, phần Sālā, Nxb. Tôn giáo, tr.354

[2] Tăng Chi Bộ, Chương Bốn Pháp, Phẩm 15, Kinh Ánh sáng.

[3] Kinh Trung Bộ, Tập 1, Kinh Thừa Tự Pháp (Dhammadāyāda Sutta), tr.31-32.

(Trích: Tạp chí Văn hóa Phật Giáo 406)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2515)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2545)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2078)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2530)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1869)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1962)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2245)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2774)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1688)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1606)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1793)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1630)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2200)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2359)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2068)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1857)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1779)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1965)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1702)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2671)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1836)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2173)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2138)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2476)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1795)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 1983)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1862)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2035)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2605)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3655)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2282)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2288)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1663)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1975)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2311)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2305)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2150)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3108)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2126)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2517)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2046)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1978)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2181)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2472)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 2035)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2441)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2401)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
(Xem: 2984)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 2049)
Mặt trời khi xuất hiệnrạng rỡ, bừng sáng, dứt khoát xóa tan bóng tối để chiếm lĩnh cả không gian của thiên địa càn khôn. Mặt trăng thì không như vậy.
(Xem: 1937)
Từ cạnh tranh sinh tồn giữa các loài sinh vật, cho đến mâu thuẫn xã hội, hận thù tranh chấp, là những nét đặc trưng trong lịch sử tiến hóa, không chỉ riêng loài người.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant