Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh Hải Ngoại: Đẩy Mạnh Ngoại Giao Văn Hóa Tâm Linh

17 Tháng Ba 202319:13(Xem: 1571)
Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh Hải Ngoại: Đẩy Mạnh Ngoại Giao Văn Hóa Tâm Linh

Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh Hải Ngoại:
Đẩy Mạnh Ngoại Giao Văn Hóa Tâm Linh

Thích Thanh Tâm

mua xuan cua hien tai



Tóm tắt
:
 

Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu về mặt lịch sử, mỹ thuật, sự sáng tạo, ý niệm về sự thiêng liêng, nuôi dưỡng đức tin của người dân; và đóng góp rất lớn trong lĩnh vực kiến trúc và mỹ thuật theo từng thời kỳ lịch sử, giúp các nhà nghiên cứu tìm hiểu, đánh giá những biến đổi về diện mạo các hệ giá trị văn hóa Phật giáo.

Riêng Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh đã để lại những di sản văn hóa, mang giá trị cả về văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Di sản ấy, mang những giá trị truyền thừa, tùy duyên sáng tạo, tùy thời cơ, xứ sở, được Chư Tăng môn phái Lâm tế Chúc Thánh truyền bá giữa trời Tây, đã đem lại những lợi ích thiết thực, gắn bó hữu cơ giữa tính chung và tính riêng, giữa chủ thể và khách thể, giữa truyền thốnghiện đại, giữa đặc trưng riêng của môn phái và hài hòa trong chỉnh thể hệ thống chung của Phật giáo Việt Nam. Do đó, với hội thảo khoa học “Thiền phái Lâm Tế Chúc Thành: Lịch sử hình thành và phát triển” tại Tổ đình Chúc Thánh Hội An, bài viết này đề cập đến sứ mệnh đẩy mạnh hơn nữa ngoại giao văn hóa tâm linh của chư Tăng Thiền phái trong sự nghiệp hoằng Pháp tại hải ngoại, góp phần truyền bá văn hóa tâm linh Phật giáo Việt Nam trên trường quốc tế.

Từ khóa: Lâm Tế Chúc Thánh, sứ mệnh ngoại giao văn hóa tâm linh, hải ngoại tùy duyên.

1. Khái niệm Ngoại giao văn hóa

Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chấttinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử; là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chấttinh thần do con người sáng tạotích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội. Như vậy, văn hóa phản ảnh những lề lối, tổ chức sinh hoạt trong sự phát triển tinh thần, đạo đức, nghệ thuật sống trong những hài hòa chung giữa con ngườixã hội, những điều này hoàn toàn phù hợp với chức năng của tôn giáo. Vì thế văn hóa chính là nền tảng thực thi của tôn giáo hướng đến chân trời văn minh nhân bản; là những thành tựu của lao động và tư duy, những tinh hoa của con người thể hiện thành vật thể hay những giá trị tinh thần phi vật thể, tất cả đem lại cái đẹp, cái thiện, cái chân lý phổ quát trong quá trình tiến hóa của loài người.

Khi người tu mang lý tưởng cứu đời, truyền bá Chánh pháp, chuyển tải văn hóa tâm linh đều thực hiện đúng với khả năng và tầm vóc hiện có của tôn giáo để khai triển giáo lý thật sâu rộng, thích ứng phù hợp được với toàn diện đời sống, nơi gặp nhau của mọi nền tôn giáo, mọi trào lưu tư tưởng tinh hoa của nền văn minh nhân loại còn đang tồn tại trong dung hợp khai phóng.

Trong thời đại toàn cầu hóa và với sự nổi trội của xu hướng “đối thoại thay cho đối đầu”, ngoại giao văn hóa được xem là một trong 3 trụ cột chính của hoạt động ngoại giao, bên cạnh ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, bởi vì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững của đất nước; là một trong những nhân tố then chốt tạo nên sức mạnh mềm của một quốc gia. Cho nên, với tư cách là một trụ cột, ngoại giao văn hóa thời gian qua đã có những đóng góp thiết thực vào việc giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Vì thế, ngoại giao văn hóahoạt động ngoại giao gắn liền với văn hóa; sử dụng văn hóa như là đối tượng và phương tiện nhằm đạt được những mục tiêu cơ bản của chính sách đối ngoại của một quốc gia, tạo hình ảnh tốt đẹp, quảng bá văn hóangôn ngữ của quốc gia trên thế giới. Đồng thời, đó là sự giao lưu những tư tưởng, trao đổi thông tin, nghệ thuật, lối sống, hệ giá trị, truyền thống, tín ngưỡng và các phương diện khác của văn hóa nhằm thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau; hoặc là quá trình hoạt động đối ngoại chủ động, trong đó các thiết chế, hệ giá trị và bản sắc văn hóa độc đáo của một dân tộc được quảng bá ở cấp độ song phương và đa phương.

Như vậy, có thể khái quát ngoại giao văn hóa như sau: “Ngoại giao văn hóa là một hình thức ngoại giao thông qua công cụ văn hóa để thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ đối ngoại nhằm đạt được các mục tiêu lợi ích cơ bản của quốc gia là phát triển, an ninhảnh hưởng.[1] Nhìn chung, nội dung của ngoại giao văn hóa được thể hiện qua nhiều loại hình hoạt động văn hóa cụ thể khác nhau. Ở đây tham luận sẽ minh chứng Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh qua những đóng góp của Chư Tăng môn phái tại hải ngoại qua việc giữ gìntruyền bá văn hóa Phật giáo Việt Nam nói chung và những đặc trưng của Thiền phái Chúc Thánh nói riêng.

2/ Chư Tăng thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tại hải ngoại

2.1 Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh

Tính đến nay dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh đã trải qua hơn 300 năm lịch sử hình thành và phát triển, các thế hệ Tăng nhân của dòng thiền Chúc Thánh đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển của Đạo pháp và Dân tộc.

Tổ Minh Hải lập thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh và xuất kệ biệt truyền riêng cho đệ tử kế thế. Các thiền sư thuộc thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh đã đem ý chỉ của Tổ truyền bá khắp mọi nơi và góp vào lịch sử Phật giáo Việt Nam những trang sử vàng son châu ngọc. Ngày nay, thiền phái Chúc Thánh có mặt khắp các tỉnh miền Trung và Nam Việt Nam, thậm chí còn phát triển mạnh tại các nước Âu - Mỹ. 

Đây là một trong những thiền phái lớn của Phật giáo Việt Nam trong quá khứ cũng như hiện tại. Cùng với sự phát triển của Thiền môn, là những cảnh quan tôn giáo chùa miếu am, tháp được xây dựng theo triết lý Thiền, rộng khắp trong không gian Chúc Thánh, đáp ứng cho việc tu thiềnsinh hoạt lễ hội của tín đồ trong nước cũng như nước ngoài. Như vậy, trên cơ sở lí luận này, có thể xác định hướng nghiên cứu giá trị ngoại giao văn hóa của Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh. Đó là sự kế thừa tư tưởng triết học, sinh thái văn hóa cả về vật chấttinh thần, cách thức tổ chức, nghi thức tu tập, lễ hội Phật giáo v.v. của thiền phái và được chư Tăng thiền phái vận dụng truyền bá giá trị này ở phương Tây.

2.2 Chư Tăng thiền phái Lâm tế Chúc Thánh tại hải ngoại

Vào những thập niên 70 – 80 của thế kỷ trước, một số lượng lớn người Việt ra đi định cư ở nước ngoài. Theo dòng chảy định cư đó, con cháu Tổ Minh Hải Pháp Bảo. cũng có mặt khắp các Châu lục để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tu tập, giữ gìn văn hóa giữa xứ người.

Tại Châu Âu, có ba ngôi chùa chính truyền thừa theo dòng Lâm tế Chúc Thánh: chùa Linh Sơn tại Pháp do Hòa thượng Thích Huyền Vi[2] khai sáng, chùa Viên Giác tại Đức do Hòa thượng Thích Như Điển[3] khai sáng và chùa Khuông Việt tại Na Uy do Hòa thượng Thích Trí Minh[4] kế thừa trùng kiến.

Tại Châu Mỹ, số lượng Tăng – Ni thiền phái hành đạo với số lượng nhiều. Tại tiểu bang Texas có Hòa thượng Thích Chơn Điền[5] lập chùa Quan Âm; tại tiểu bang California có Hòa thượng Thích Thanh An[6] lập An Tường tự viện tại thành phố Oakland; Hòa thượng Thích Hạnh Đạo[7] lập chùa Phổ Đà, thành phố Santa Ana; Hòa thượng Thích Huyền Dung[8] lập Phật Quang thiền viện tại Santa Ana; Thượng tọa Thích Pháp Châu[9] lập chùa Việt Nam tại thành phố Garden Grove; Thượng tọa Thích Minh Dung[10] lập chùa Quang Thiện tại thành phố Ontario. Tại bang Atlanta có Thượng tọa Thích Hạnh Đạt[11] lập tu viện Kinh Cang; tại Virginia có Thượng tọa Thích Đồng Điển[12] lập chùa Đông Hưng; tại tiểu bang Chicago có Thượng tọa Thích Hạnh Tuấn,[13] trú trì chùa Trúc Lâm; tại Washington DC có Thượng tọa Thích Đồng Trung[14] làm chùa Dược Sư tại Seatle, v.v và nhiều tự viện trực thuộc Giáo hội Phật giáo Linh Sơn trên thế giới.

Tại châu Úc, có Hòa thượng Thích Huyền Tôn,[15] khai sáng chùa Bảo Vương tại Victoria; Hòa thượng Thích Như Huệ,[16] khai sáng chùa Pháp Hoa tại Adelaide; Hòa thượng Thích Bảo Lạc,[17] khai sáng chùa Pháp Bảotịnh thất Đa Bảo tại Sydney; Thượng tọa Thích Phước Nhơn khai sáng chùa Phổ Quang; thượng tọa Thích Quảng Ba[18] khai sáng tu viện Vạn HạnhNguyên Thiều; Thượng tọa Thích Như Định khai sáng chùa Thiên Ấn; Thượng tọa Thích An Thiên khai sáng chùa Minh Giác.

3. Đẩy mạnh hơn nữa sứ mệnh hoằng Pháp hải ngoại của chư Tăng thiền phái Chúc Thánh

3.1 Tính cấp thiết của sứ mệnh

Thời kỳ hội nhập cộng đồng quốc tế, sự sinh hoạt của con người thời đại hiện nay, đã và đang thay đổi với một tốc độ chóng mặt. Khoa học càng phát triển, nhu cầu quyền lợi vật chất càng tăng, kinh tế một số các quốc gia đang lâm vào tình trạng khủng hoảng, kéo theo một chuỗi của nạn thất nghiệp, khủng hoảng môi trường sinh thái, những tệ nạn xã hội và  tội ác lại gia tăng.

Cho nên, để giải quyết vấn đề đó, con người phải thực thi tinh thần nhân đạo, nêu cao đời sống luân lý, đạo đức vì lợi ích toàn cầu và vì hạnh phúc con người. Trong chiều hướng này, Phật giáo không chỉ góp phần cải tạo về mặt xã hội mà còn đóng góp về mặt đời sống tinh thần. Việc tiếp nối truyền thống lịch đại Tổ sư, xiển dương lời Phật, ngày nay đang mở rộng đến các quốc gia, tạo nên một sự khả quan, một niềm khích lệ lớn, một diện mạo mới của Phật giáo cùng với một hướng nhìn tích cực, thích nghi với mọi hoàn cảnh hơn.

Do đó, hoằng Pháp tại hải ngoại với sứ mệnh khẳng định truyền thống lịch sửgiá trị nhân bản của Phật giáo, một tôn giáo hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam. Đồng thời giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt Namvăn hóa truyền thống và lịch sửvăn hóa tâm linh Phật giáo Việt Nam đến với kiều bào cũng như bạn bè quốc tế.

3.2 Đẩy mạnh hơn nữa sứ mệnh ngoại giao văn hóa tâm linh

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, văn hóa tâm linh càng trở nên quan trọng trong mối liên hệ với ý nghĩasức mạnh mềm trong Phật giáo. Văn hóa tâm linh có sức thâm nhập mạnh nên phải chú ý nhiều đến các chủ đề văn hóa, như đa dạng văn hóa, tiếp biến va đối thoại giữa các nền văn hóa - văn minh. Cho nên, việc sử dụng văn hóa như là đối tượng và phương tiện nhằm đạt được những mục tiêu cơ bản của chính sách đối ngoại quốc gia, tạo hình ảnh tốt đẹp, quảng bá văn hóangôn ngữ, đồng thời, thiết lập, phát triển và duy trì quan hệ với những quốc gia khác bằng phương tiện văn hóa, nghệ thuật và giáo dục. Đây cũng là quá trình hoạt động đối ngoại chủ động, nhằm quảng bá các hệ giá trị và bản sắc văn hóa, qua đó nâng cao sức mạnh mềm, tạo vị thế cho quốc gia đó. 

Trong thời gian qua, chư Tăng thiền phái Lâm tế Chúc Thánh đã có những đóng góp thiệt thực cho sứ mệnh truyền bá Chánh Pháp, đẩy mạnh văn hóa tâm linh. Sau khi định cư nước ngoài, chư Tăng đã lèo lái con thuyền chánh pháp để hoàn thành sứ mạng “Thượng hoằng Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”, đáng kể nổi bật về các phương diện: Khai sáng Giáo Hệ Linh Sơn, phát triển các chi nhánh khắp năm châu, làm sống lại tinh thần Linh Sơn Pháp Hội như thời Đức Phật còn tại thế; đào tạo tầng lớp Như-Lai Sứ Giả truyền bá Chánh Pháp; là thành viên của các tổ chức Phật Giáo trên thế giới và đảm nhiệm những chức vụ quan trọng. Tổ chức lễ quy y cho người Việt Nam trở thành Phật tử và không ít người Đức cũng đã tìm đến với Đạo Phật; sáng lập Hội sinh viên và Kiều bào Phật tử Việt Nam; xây dựng chùa làm trung tâm Văn hóa có tầm cỡ của Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại cho mọi người về chùa lễ Phật và học Phật cũng như tham gia các Đại Lễ, tham gia các khóa thiền tịnh, học hỏi, thực tập giáo lý của Đạo Phật hằng năm; học chữ Việt và giữ nét văn hóa truyền thống. Sáng tác các tác phẩm và dịch phẩm Phật giáo từ các tiếng Việt, Anh, Hán, Nhật  và Đức ngữ để phổ biến văn hóagiáo lý. Thành lập các phái đoàn Hoằng Pháp Âu, Mỹ, Úc đi khắp các châu lục để giảng pháp cho các Phật tử Việt Nam, Hoa Kỳ, Mễ  v.v... tại các quốc gia ở Âu Châu cũng như Hoa Kỳ và Canada.

Trên đây là điểm sơ qua những đóng góp thiết thực của chư Tăng thiền phái đã và đang đóng góp cho sứ mệnh truyền bá Chánh pháp, ngoại giao văn hóa tâm linh Phật giáo Việt Nam, cũng như văn hóa Việt Nam cho người Việt và giới thiệu cho người bản xứ. Để đẩy mạnh sứ mệnh này trong tương lai, cần xây dựng khung phát triển để thúc đẩy hơn nữa sứ mệnh này, cần một là, đào tạo thế hệ kế thừa để truyền bá giáo Pháp, có học, có tu, nắm vững giáo lý thực nghiệm; nắm vững đường lối tu học, truyền thống tâm linh Phật giáo Việt Nam nói chung, của thiền phái nói riêng; có tầm nhìn chiến lược; đồng tâm, đoàn kết; có ngôn ngữ, tư duy khoa học, phương pháp phù hợp với kiều bào cũng như cộng đồng Phật giáo bản xứ để truyền bá Chánh Pháp, xây dựng tịnh độ nhân gian, góp phần giải quyết các vấn nạn toàn cầu, phát triển xã hội bền vững.

Hai là, tiếp thu có chọn lọc. Đây là sứ mệnh mang văn hóa tâm linh Phật giáo Việt Nam ra truyền bá cho kiều bào cũng như cộng đồng Phật tử các nước, hướng tới việc nâng cao sự hiểu biết đúng đắn, khuyến khích việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóatruyền thống dân tộc. Bên cạnh việc truyền bá văn hóa tâm linh Phật giáo còn tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa, tư tưởng nhân văn, giá trị đạo đức, tri thức, khoa học tiên tiến trên thế giới và cả văn hóa tâm linh các truyền thống Phật giáo các nước để làm phong phú, hiện đại và giàu đẹp nền văn hóa Phật giáo Việt Nam nói chung và của thiền phái nói riêng.

4. Kết luận

Như vậy, những năm đầu thế kỷ 21, sứ mệnh ngoại giao văn hóa tâm linh đặc biệt chú trọng vì khả năng giải quyết những thách thức lớn - sự bất bình đẳng, nghèo đóixung đột - của thời đại theo hướng bền vững, dựa trên sự tôn trọng con người, tôn trọng văn hóalối sống của nhau. Do đó, các nguyên tắc của ngoại giao văn hóa bao gồm: thừa nhận, thấu hiểu, đối thoại – nghĩa là thừa nhận các giá trị văn hóa của nhau, chia sẻ và cùng đối thoại vì các mục đích chung.

Do đó, trên nền tảng những điều kiện thuận lợi của Thiền phái từ quốc nội đến quốc ngoại, cần nhận định đường lối để giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa của Thiền phái, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa sứ mệnh ngoại giao văn hóa tâm linh Phật giáo, giữ vị trí nền tảng tinh thần của hoạt động hoằng Pháp tại hải ngoại của chư Tăng thiền phái, qua việc xây dựng chùa, lập trung tâm giữ gìntruyền bá giáo lý, văn hóa, thực hiện nghi lễ, thuyết Pháp, trao đổi học thuật, đào tạo thế hệ kế thừa, tiếp thu và làm giàu văn hóa tâm linh, v.v. để  nhằm mang thông điệp hòa bình, an lạc giải thoát của đức Thế tôn hướng đến một nếp sống hạnh phúc. Đồng thời, tạo hình ảnh tốt đẹp của đất nước, quảng bá văn hóa tâm linh Phật giáo Việt Nam nói chung và thiền phái nói riêng, nhằm tạo ra uy tín, vị thế và ảnh hưởng của Phật giáo Việt Nam với thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. 

Tài liệu tham khảo

1. Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp chủ biên (2013), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM.

 2. Thích Thanh Tâm (2019), Ngoại giao văn hóa qua đại lễ Vesak Liên hợp quốc 2019 tại Việt Nam, bản thảo.

3. Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản.

4. Thích Giải Nghiêm, Tìm hiểu sự hình thành và phát triển Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Quảng Nam, https://www.chuabuuchau.com.vn/luan-van-hoi-thao/tim-hieu-su-hinh-thanh-va-phat-trien-cua-thien-phai-lam-te-chuc-thanh-tai-quang-nam-thich-giai-nghiem_1111.html

5. Đinh Kiều Nga, Bản sắc văn hóa Việt Nam qua Di sản văn hóa tôn giáo, http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/3589/Ban_sac_Van_hoa_Viet_Nam_qua_Di_san_van_hoa_ton_giao_Phan_I_

6. Thích Như Tịnh, Lịch sử truyền thừa Thiền phái Chúc Thánh, http://hoavouu.com/images/file/9xUXfvQW0wgQALtq/lich-su-truyen-thua-thien-phai-chuc-thanh-thich-nhu-tinh.pdf

 

Thông tin tác giả: Đại đức Thích Thanh Tâm, Ủy viên Ban Hoằng Pháp TƯ GHPGVN, tiến sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế.

Địa chỉ liên lạc: Chùa Xuân Hòa, 55/1 Hà Huy Tập, Thanh Khê, Đà Nẵng.

Tell: 0936054054.

Email: nhuantrieuminh@gmail.com



[1] Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).

[2] Ngài thế danh Lê Văn Huyền, pháp danh Như Kế, pháp tự Giải Đạo, pháp hiệu Huyền-Vi, thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 41. Ngài đệ tử Hòa thượng Trí Thắng, trú trì chùa Thiên Hưng, làng Vân Sơn, Tháp Chàm, Ninh Thuận.

[3] Hòa Thượng Thích Như Điển, thế danh Lê Cường, Pháp tự: Giải Minh, Pháp hiệu: Trí Tâm, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1949 tại xã Xuyên Mỹ, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Ngài là đệ tử Hòa thượng thích Long Trí, chùa Viên Giác Hội An; sau nhập chúng tu tập tại Tổ đình Phước Lâm, dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng Thích Như Vạn.

[4] Hòa thượng Thích Trí Minh, pháp danh Đồng Tâm, tự Thông Tịnh, thế hệ thứ 10 pháp phái Chúc Thánh; xuất gia với Hòa thượng Thích Thị Châu, chùa Linh Sơn, xã Nhớ Phú, Quy Nhơn.

[5] Đời 40 Lâm tế Chúc Thánh; đệ tử Hòa thượng Phổ Toại, chùa Long Tuyền Hội An.

[6] Đời 43 Lâm tế Chúc Thánh; đệ tử Hòa thượng Thích Trí Hữu, chùa Linh Ứng, Non Nước, Đà Nẵng.

[7] Đời 42 Lâm tế Chúc Thánh; đệ tử Hòa thượng Thích Trí Minh, chùa Pháp Bảo, Hội An, Quảng Nam.

[8] Đời 42 Lâm tế Chúc Thánh; đệ tử Hòa thượng Thích Trí Hải, chùa Bích Liên, Bình Định.

[9] Đời 44 Lâm tế Chúc Thánh; đệ tử Hòa thượng Thích Thông Bửu, chùa Quán Thế Âm, Sài Gòn.

[10] Đệ tử Hòa thượng Thích Huyền Quang, tu viện Nguyên Thiều, Bình Định.

[11] Đời 42 Lâm tế Chúc Thánh; đệ tử Hòa thượng Thích Thọ Giác, Quảng Ngãi.

[12] Đời 43 Lâm tế Chúc Thánh; đệ tử Hòa thượng Thích Hành Trụ, chùa Đông Hưng, Sài Gòn.

[13] Đời 42 Lâm tế Chúc Thánh; đệ tử Hòa thượng Thích Như Vạn, chùa Phước Lâm, Hội An.

[14] Đời 43 Lâm tế Chúc Thánh; đệ tử Hòa thượng Thích Hưng Từ, chùa Pháp Hội, Bình Thuận.

[15] Đời 41 lâm tế Chúc Thánh; đệ tử Hòa thượng Chơn Trung – Diệu Quang chùa Viên Giác, Bình Sơn, Quảng Ngãi

[16] Đời 41 lâm tế Chúc Thánh; đệ tử Hòa thượng Chơn Chứng – Thiện Quả, Tổ đình Chúc Thánh, Hội An.

[17] Đời 43 lâm tế Chúc Thánh; đệ tử Hòa thượng Thích Trí Hữu, chùa Linh Ứng, Non Nước, Đà Nẵng.

[18] Xuất gia với Hòa thượng Thị Phong – Bửu Quang, chùa Hưng Long, Bình Định.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1649)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1823)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1832)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1514)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1674)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2012)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1761)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2321)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1655)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1664)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1618)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2073)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1892)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2031)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1581)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2188)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1549)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1807)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1697)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1760)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1593)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2346)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2059)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2011)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1822)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2160)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1729)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1852)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2079)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1609)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1876)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1869)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2093)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1859)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1707)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1688)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1694)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1806)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2100)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1662)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1637)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2190)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1902)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1709)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2279)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1898)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1988)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2182)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2464)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2503)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant