Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cha Con Và Cái Duyên Phật Pháp

27 Tháng Ba 202318:31(Xem: 1375)
Cha Con Và Cái Duyên Phật Pháp

Cha Con Và Cái Duyên Phật Pháp

Tiểu Lục Thần Phong

 Công Phu



Cũng như hầu hết những đứa trẻ người Việt sinh ra và lớn lên ở hải ngoại, con gái tôi không đọc hay viết được tiếng Việt, nói thì có thể nhưng nghe hiểu thì cũng hạn chế, dù rằng lúc nhỏ có học tiếng Việt ở chùa. Những đứa trẻ người Việt mang quốc tịch Mỹ, phong cách sống pha trộn nửa Việt nửa Mỹ nhưng cái nhân dáng thì vẫn là Việt, cái gốc văn hóa vẫn còn nhưng cũng pha trộn và phai nhạt nhiều. Nhiều em sống trong gia đình quá “Tây hóa” thì hoàn toàn mất gốc.

Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt… Nhưng từ khi lên bậc trung học thì cô bé không còn thích đến chùa nữa, bậy giờ cô bé đã có nhận thứclập trường riêng, không còn quyến luyến theo cha mẹ, thỉnh thoảng cũng đến chùa với cha me, cái may là vẫn còn nhớ những cách lễ lạy đã thực hành lúc nhỏ. Thực tình mà nói, nhiều đứa trẻ đến chùa chỉ là vì theo cha mẹ chứ không phải vì thích, đến chùa làm các em chán vì không hiểu những gì người lớn đọc tụng kinh, hình thức tu truyền thống không hấp dẫn các em, ấy là chưa nói đến kinh điển thì các em hoàn toàn không biết, không hiểu gì, ngay cả những bài tán hương, tán Phật ngắn nhất.

Tôi nhận thấy con gái mình cũng như những đứa trẻ Việt khác đều như thế, một ngày kia tôi chợt nảy ra ý nghĩ vận dụng kiến thức Phật pháp nghèo nàn và vốn tiếng Anh ba rọi để viết những bài văn ngắn về Phật pháp, về giáo lý căn bản… Rồi tôi đưa cho con bé, bảo nó sửa lỗi chính tả và câu cú giúp cho. Con bé vui vẻ đọc và chỉnh sửa, gặp những thuật ngữ Phật giáo hay những đoạn không hiểu thì cô ta hỏi lại và tôi giải thích. Đôi khi tôi cố khơi gợi những ý cho cô bé hỏi… Thế là hai cha con cùng thảo luận vui vẻlý thú. Thông qua việc đọc văn bản để sửa lỗi chính tả, cô bé vô tình đã nhận biết và hiểu được chút ít căn bản giáo lý Phật đà.

Cứ vào mỗi bữa ăn tối, thường chỉ có hai cha con với nhau. Chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện về đạo Phật, có khi xem phim hay lướt mạng xã hội. Cô bé hỏi nhiều vấn đề về Phật pháp tỉ như:’ Tại sao phải quy y? Tại sao phải thọ năm giới?…: những vần đề này tương đối dễ nên tôi đáp cũng trôi chảy. Có khi cô bé hiểu một cách máy móc chẳng hạn như:” Sao ba thọ năm giới mà lại còn uống bia?” Tôi biết cũng khá nhiều người hiểu máy móc như thế nên bảo:” Phật chế giới uống rượu là để ngăn ngừa sự lạm dụng say sưa đến mất lý trí, nhân cách… chứ không phải cấm ngặt đến độ không được uống”. Cứ như thế hai cha con vừa ăn vừa nói chuyện vui vẻ chuyện đời và tôi cố ý hướng thêm chuyện đạo. Sau này tôi bắt đầu viết về từ diệu đế, bát chánh đạo đưa cho con bé xem và bảo nó sửa văn giúp. Con bé đọc qua và lĩnh hội chút ít, với cách này tôi vừa ôn lại giáo lý vừa ngầm truyền cho con bé, cả hai đều cùng được lợi ích. Với cách học Phật gián tiếp như thế này, con gái tôi đạt được hiệu quả nhiều hơn là đến chùa nghe kinh mà không hiểu gì. Cách học này vừa thoải mái và vui vì con bé nghĩ đã giúp cha nó và tôi vui vì con đọc được giáo lý Phật đà.

Con gái tôi đã có nhận thức và chút ít kiến thức về Phật học, có lần cô ta so sánh đức Phật với thượng đế các tôn giáo khác. Cô ta nhận biết đức Phật là bậc giác ngộ, là vị thầy chỉ đường tu cho mọi người. Đức Phật không dùng phép tắc và không có ban phước giáng họa như thượng đế. Thượng đế sáng tạo ra đủ thứ, có quyền năng… còn đức Phật không có nói thế bao giờ. Cô bé thắc mắc :” Sao tượng và tranh Phật thì có tóc mà các thầy và cô ở chùa không có tóc?” Tôi bảo đấy là do người tạc tượng vẽ tranh làm thế, kinh Phật có nói về “nhục kế” trên đầu Phật, đó là biểu tượng của trí huệ tối thượng của Phật. Cô bé chỉ biết ứng hóa thân của Phật, tức đức Phật lịch sử, tức từ ông hoàng ở Ấn Độ cổ đại tu hànhgiác ngộ, còn pháp thân hay báo thân thì không thể biết và tôi cũng mù mờ không thể giải thích được, đành gác lại.

Với cách này, con gái tôi đã biết chút ít về căn bản Phật pháp, nếu cứ theo lối cũ, lạy Phật, cố ngồi nghe những buổi thuyết pháp tràng giang đại hải thì… không hiệu quả, từ đó tôi có ý kiến rằng: Nếu quý Phật tử có con hay cháu nhỏ tuổi, hãy cố gắng viết hay soạn những bài thật ngắn về căn bản giáo lý cho con cháu mình đọc, dĩ nhiên là tiếng Anh vì bọn trẻ đâu đọc được tiếng Việt, đừng đưa cho các cháu bài dài hay sách, chúng thấy ngán nên không đọc đâu. Quý vị trình bày vài vấn đề căn bản rồi nhờ các cháu sửa lỗi chính tả hay câu văn… như thế là các cháu đọc và tự nhiên sẽ thẩm thấu chút chút vào trong tâm thức của các cháu. Với cách này thì cả ông bà cha mẹ và các cháu cùng vui vẻ học Phật. Với cách này thì tiếp cận đạo Phật thoải mái không gây nhàm chán cho các cháu, không có sự ngăn cách của hai thế hệ, không bị cản trở về nhận thứcquan điểm của trẻ và già…

Con em người Việt ở hải ngoại có phước lớn được sống trong sự sung túc vật chất, thụ hưởng những phương tiện văn minh, kỹ thuật cao, được học hành bởi một nền giáo dục hữu hiệu, tân tiến, khai phóng...Mặc trái của vấn đề là các em không còn đọc và viết được tiếng Việt, dĩ nhiênvăn hóa truyền thống cũng phai nhạt, việc duy trì đức tin Phật giáothực hành cũng không thể như trẻ em ở trong nước, vì thế các em không hiểu và nhàm chán dễ xa rời và dễ đi đến mất gốc. Có một thức tế là các tôn giáo khác ở hải  ngoại họ rất tích cực tiếp cận với chúng ta và con em chúng ta. Họ năng nổ và dùng mọi chiêu thức để chiêu dụ. Mỗi sáng chủ nhật ( có khi cả ngày thường) họ cho những thiện nguyện viên ( đã qua huấn luyện) đi đến từng nhà, gặp từng người để xin nói chuyện, hướng dẫn, tặng tài liệu… thậm chí dùng phương tiện vật chất để chiêu dụ. Họ trổ tài hùng biện để mọi người đi theo đức tin của họ. Mà tôn giáo của họ và văn hóa phương tây lại khá thoải mái, khác với nghi thức gò bó của truyền thống đạo Phật, điều này rất dễ lôi kéo các em, điều này có nghĩa là chúng ta rất dễ “ mất” các em. Vì thế chúng ta hãy cố gắng truyền niềm tin Phật phápgiáo lý căn bản cho con em chúng ta. Quý Phật tử có con cháu nhỏ tuổi hãy thử cách mà tôi vừa trình bày thử xem, khá dễ dàng thoải mái nhưng lại hiệu quả. Quý Phật tử có thể dùng bất cứ phương tiện nào có thể, miễn là giúp con em chúng ta hiểu Phật, biết căn bản giáo lý từ đó mới có thể vững tin vào đạo Phật.

Thời gian dần trôi qua, tôi dần già đi thì con gái cũng trưởng thành. Con bé vào đại học, ngoài những buổi học còn xin làm bán thời giantrung tâm sinh hoạt cộng đồng của trường. Những ngày trước thì hai cha con thường ăn cơm chiều với nhau, giờ con bé đi làm ngoài giờ thì buổi cơm chiều còn lại mình tôi. Tôi cảm thấy buồn, thấy nhớ, thấy thấm thía thế nào là vô thường, sự vô thường là thế, mọi vật, mọi việcthế gian này thay đổi liên lỉ trong từng phút giây. Tất cả quay vùn vụt trong cái vòng quay vô hình, sinh ra lớn lên rồi già đi và sẽ đến cái chết rồi lại tái sinh. Con người vì duyên mà gặp nhau để làm ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái… rồi cũng vì duyên mà sẽ chia ly, sẽ vĩnh biệt. Nhà phật bảo:” các pháp do duyên sanh thì cũng sẽ do duyên mà diệt”. Hoặc như:” Oán tắng hội khổ, ái biệt ly khổ”...Ở đây, con gái chỉ mới là bước đầu tạm xa trong bữa cơm nhưng là dấu hiệu để biết những tah1ng năm tới đây sẽ dần xa hơn và nhìn thật kỹ hơn nữa thì ắt sẽ thấy đến lúc con gái ra riêng, có cuộc sống riêng, thậm chí thấy cái tử biệt sanh ly ở cuối con đường.

Những ngày nghỉ cuối năm nằm nhà buồn tênh, cái buồn như thẩm thấu vào từng tế bào, đi ra đi vào căn nhà lạnh lẽo vắng tanh. Đã mười mấy năm nay, cha con quấn quýt thủ thỉ với nhau, giờ con gái đủ lớn và bắt đầu đi làm thêm sau giờ học. Tôi thấy buồn chông chênh và trống trải lạ thường, mới ngày đầu tiên vắng mặt con gái mà cứ ngỡ như cách xa lâu lắm, hai cha con liên tục gởi tin nhắn cho nhau.Tuy là ngày đầu tiên nhưng đây là dấu hiệu báo trước cho những ngày tháng sắp tới, mối dây ràng buộc giữa cha và con dần dần lơi lỏng. Con gái trưởng thành sẽ có tình cảm riêng, đời sống riêng của nó và tôi sẽ lui dần vào dĩ vãng cho đến một ngày nào đó thì...

Thế gian này mọi vật, mọi việc thay đổi liên lỉ trong từng phút giây, chẳng có gì bền vững chắc chắn cả, chẳng có gì để gọi là tuyệt đối, vô thường chính là thường!

Ngày xưa mình cũng đã từng thế, lúc nhỏ quấn quýt bên cha mẹ, lớn lên đi học, đi làm, rồi có vợ con và có cuộc sống riêng. Tình thương ngày trước dành cho cha mẹ sau phải san sẻ cho vợ con, thậm chí còn lấn lướt hơn phần dành cho cha mẹ. Giờ con gái trưởng thành và bắt đầu từng bước định hình để có cuộc sống riêng. Rồi mai đây đến lượt con của con gái cũng sẽ như thế,cả thế gian này rồi ai cũng phải như thế! Từng đời, từng đời nối tiếp nhau, từng thế hệ sum họp rồi chia xa. Cái vòng luân hồi miên viễn bất tận, dòng sanh tử chưa từng dừng lại bao giờ, cái bóng dáng của thành- trụ- dị- diệt cứ hiển hiện trong từng sát na. Lý thuyết là thế, sự thật cũng như thế! Làm người thì tránh sao được nỗi buồn này? Con người nào có phải là gỗ đá trơ trơ.

Giai thoại nhà thiền có câu chuyện thế này: Có một bà lão hơn hai mươi năm chăm lo vật thực cho một vị thiền sư tịnh tu trên non. Một ngày kia bà bảo một cô gái trẻ đẹp đến ve vãn thiền sư để xem công phu tu hành đạt đến mức độ nào. Cô gái làm theo lời bà lão và về nói lại lời của vị thiền sư ấy:” Lòng ta như cây khô trên núi tuyết”. Bà lão lập tức đến đốt ngay thảo am của vị thiền sư nọ và nói:” Uổng công ta cung phụng hai mươi năm nay cho lão già này! Lão không cần nhưng chí ít lão cũng phải để tâm đến cô gái mới phải”, thế đấy! Con người mà, sao có thể trơ như gỗ đá được! Học Phật nào phải để trơ như gỗ đá, giải thoát không có nghĩa là trơ như gỗ đá!

Ngày xưa khi ta dần lớn lên thì cha mẹ ta dần già đi, nay con gái ta lớn lên thì ta lại đi vào lão hóa. Sanh- lão- bệnh- tử là quy luật tự nhiên, không ai tránh khỏi. Kinh Phật từng dụ dù có trốn trên mây, núi cao, hang thẳm, đáy biển… cũng không thể tránh khỏi được cái già, cái bệnh, cái chết! Khi sanh ra là đã có ngay cái già, cái bệnh, cái chết. Cái già, cái bệnh, cái chết nó song hành với cái sanh, không thể nào tách ra được! Đã không già, không bệnh, thì cũng không sanh; chiều ngược lại cũng thế, môt khi không sanh thì ắt chẳng có cái già, cái bệnh, cái chết.

Con gái dần dần lớn lên, tình cảm cha con dần dần lơi lỏng, vì con gái còn có tình riêng của nó. Có những người cha đã rơi lệ trong ngày vu quy của con gái, giọt lệ hạnh phúc mừng con gái trưởng thành yên bề gia thất, nhưng giọt lệ ấy cũng chất chứa nỗi buồn tình cha con dần nhạt nhòa đi. Ông bà đã trải qua, cha mẹ đã từng, rồi đến lượt mình cũng thế, sau này con của con mình lại tiếp tục. Rồi ai cũng phải thế! Xem ra cái sự việc phải như thế này rất là “Như thị”, không thể nào khác đi được! Cái sự việc phải như thế này nó đúng với cái nhìn tục tế, hợp với thế gian này.

Sum họp vui,  chia ly buồn, sanh vui, tử khổ… Con ngườithất tình lục dục mà khổ. Bởi thế Phật mới chỉ ra con đường thoát khổ, phải ly gia đoạn dục, cắt ái từ thân, phải tu tập để chứng đắc niết bàn ( dù là hữu dư hoặc vô dư) thì mới vắng bặt hết khổ, phiền não. Tuy nhiên thế gian này mấy ai làm được? người xuất gia tuy nhiều nhưng dễ đâu chứng đắc. Người tại gia thì càng không phải nói nữa. Bởi thế cái khổ vẫn song hành với sanh tử, vẫn hiện diện trong mỗi phút giây. Ngày những người xuất gia từ biệt cha mẹgia đình để đi tu cũng buồn lắm chứ, bao nhiêu giọt lệ rơi. Cái buồn tử biệt sanh ly, cho dù chỉ ly biệt tạm thời.

Đời kế tiếp đời, hợp tan tái diễn, tử sanh không ngừng, việc tái sanh và gặp lại cha mẹ, con cái trong một nhà là việc vô cùng mong manh hy hữu. Làm sao có thể gặp lại được khi mà mỗi người tạo một cái nghiệp khác nhau? Làm sao có thể sum họp với người cũ được khi mà thân người chưa chắc được? Phật nói được lại thân người khó như rùa mù ngoài biển khơi, cứ mỗi trăm năm mới nổi lên một lần sao cho cái đầu lọt vào cái lỗ của miếng gỗ bập bềnh trôi trên sóng nước.

 Tình cảm là sợ dây ràng buộc chắc chắn hơn bất cứ xiềng xích nào, tình cảm xa cách thì buồn đau thương nhớ! Ấy là nỗi khổ của đời người, nhưng rồi ai cũng phải thế thôi! Ngày xưa khi thái tử Tất Đạt Đa quyết chí xuất gia, ngài cũng buồn đau, cũng khổ lắm chứ khi nhìn vợ con lần cuối trước khi ra đi. Tuy nhiên bậc dõng mãnh khác với phàm phu, thà khổ một lần để rồi hết khổ. Ngài đã tìm ra con đường giải thoát cho chính mình và cho nhân loại. Khi ngài chứng đắc tam minh lục thông, trí huệ bừng lên ngài tuyên bố:” Hỡi kẻ làm nhà kia, từ đây thôi nhé! Cột, kèo, ruôi, mè… đã gãy tan”. Ngài chứng đắc vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ngài không còn sanh tử luân hồi nữa. Ngài đã mở ra con đường thoát khổ cho loài ngườithế gian này. Ngài là đạo sư của cả chư thiên, nhân và phi nhân.

 Đạo Phật do ngài khai sáng vạch ra con đường đi, phương pháp hành cho mọi người. Với người đủ duyên, đủ bản lãnh thì một lần cắt ái từ thân, ly gia đoạn dục để dõng mãnh lên đường. Với đại đa số người chưa làm nổi thì cũng biết sống và học theo những chỉ dẫn của ngài để cuộc sống bớt khổ. Cụ thể như giảm ham muốn ( biết đủ), bớt ràng buộc, buông bớt… càng giảm, càng buông được bao nhiêu thì đỡ khổ bấy nhiêu.Tình cảm con người cũng có nhiều loại và nhiều mức độ khác nhau, tuy nhiên cao quý và thiêng liêng nhất vẫn là tình cảm cha mẹ và con cái. Khi chưa thể cắt ái từ thân được thì cũng cố gắng làm những điều lành, điều phước thiện nhất cho cha mẹ, con cái và những người thân. Một người nặng thương yêu có thể làm tất cả vì cha mẹ hay cho con cái nhưng tuyệt đối không vì thương mà mê muội chấp nhận  làm những điều sai trái tổn hại phước đức của chính mình hay của cha mẹ, con cái mình. Cái điều thiện – ác của thế gian cũng rất hàm hồ và sai lệch, phải có chánh kiến để nhận biết thiện – ác để làm theo, cứ căn cứ theo tứ diệu đếbát chánh đạo để biện biệt thiện - ác thì ắt sẽ đúng. Phàm những gì lợi người, lợi vật là thiện, bằng như ngược lại là ác. Phàm những gì làm cho người thức tỉnh thì là thiện còn như làm cho người mê muội thì là ác. Nhà Phật dạy:

 Chư ác mạc tác

 Chúng thiện phụng hành

 Tự tịnh kỳ ý

 Thị chư Phật giáo

 Rất đơn giản, rõ ràng nhưng cũng chẳng phải dễ, vì không phải dễ mà đã vô lượng kiếp rồi vẫn còn loay hoay tử biệt sanh ly chẳng trọn. Tử sanh vẫn cứ vần xoay chẳng biết đến bao giờ.

Con gái đến tuổi trưởng thành, ngày đầu tiên đi làm thêm. Tôi ở nhà thấy buồn và trống trải vô hạn, vào ra một mình, quay vào trong thấy tôn tượng Thế Tôn ngồi an nhiên, thanh thoát; quay ra ngoài thì đụng bao nhiêu dụ hoặc của ngũ dục lục trần, lòng cứ phân vân, tiến lui chẳng đặng. Lại chợt nhớ cha mẹ già ở phương trời cố quận xa xôi, nhớ con gái mới ngày nào còn lẫm chẫm lòng trào dâng niềm cảm khái khôn cùng buộc miệng thành lời:” Rồi ai cũng phải thế!”

 

Tiểu Lục Thần Phong

Ất Lăng thành, 2022
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 786)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 688)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 719)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 705)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 797)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 939)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1409)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 957)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1001)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 795)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 751)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 764)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 628)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1293)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1171)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1144)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1233)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1159)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1035)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1156)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1126)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1244)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1134)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1196)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1174)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1752)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1148)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1178)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1289)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1174)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant