Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phương Pháp Phòng Hộ Căn Môn Trong Lời Dạy Của Đức Phật

07 Tháng Tư 202319:22(Xem: 1467)
Phương Pháp Phòng Hộ Căn Môn Trong Lời Dạy Của Đức Phật
Phương Pháp Phòng Hộ Căn Môn Trong Lời Dạy Của Đức Phật

Thích Trung Định

Vô Tướng Tam Muội 1

Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết. Các giác quan của con người là nơi dễ dàng thâm nhập các đối tượng trần cảnh làm dấy khởi tâm tham, dẫn đến nhiễm ôđau khổ. Có sáu giác quan là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, tiếp xúc với sáu đối tượng trần cảnh là: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Theo quan điểm của Phật giáo, sự tiếp xúc giữa các giác quan và đối tượng trần cảnh là một “cơ hội” để các trạng thái tham muốn, chán nản, xấu xabất thiện tràn vào trong tâm thức khi chúng ta không có sự kiềm chế. Định lý duyên khởi chỉ ra rằng, khi các giác quan tiếp xúc với các đối tượng trần cảnh thì sẽ nảy sinh các cảm thọ; từ cảm thọ sinh ra ái dục, từ ái dục sinh ra chấp thủ, từ chấp thủ sinh ra hiện hữu, từ hữu có sinh, từ sinh già và chết, sầu bi khổ ưu não có mặt. Do đó, khi cắt đứt một mắc xích nào trong chuổi duyên khởi này thì khổ đau chấm dứt. Đó là ý nghĩa của phương pháp bảo vệ giác quan như được mô tả trong lời dạy của Đức Phật.

Theo thói quen, trong mỗi con người tồn tại hai phản ứng khuynh hướng tâm lý đối với các đối tượng được cảm nhận, một là yêu thích, dễ chịu; hai là ghét bỏ, khó chịu. Theo quan điểm của Phật giáo, cả hai khuynh hướng trên đều do vô minh (avijja) chi phối và là nguyên nhân sâu xa nhất của chúng. Chính vì thiếu hiểu biết về bản chất phụ thuộc và luôn thay đổi của các giác quan và các đối tượng của chúng mà con người yêu những gì hợp ý và trở nên tức giận với những gì không phù hợp và điều này làm cho chúng ta đau khổ. Từ những gì đã trình bày ở trên, có thể nói rằng đau khổ phát sinh chủ yếu là do tham, sân, si. Do vậy, mục đích của phương pháp này là ngăn chặn tâm tham, sân, si phát sinh do sự tiếp xúc.

Trong một bài giảng đầu tiên với tên gọi “Bài giảng về lửa’ (The Fire Sermon), Đức Phật tuyên bố rằng: ‘tất cả đều đang cháy’ (all is burning). Tất cả chỉ là sáu giác quan, sáu trần và sáu thức. Con mắt đang cháy với sắc trần, vị tham đắm vào trần cảnh, lỗ tai đang cháy với thanh trần…tương tự như vậy với các căn và trần còn lại. Chúng đang cháy với những đám cháy của phiền nãođau khổ. Trong Tương ưng về xứ (Saḷāyatanasaṃyutta) liên tục tuyên bố rằng, để đoạn tận vô minh và tạo ra sự hiểu biết chân thật, chúng ta phải quán chiếu tất cả những sáu nội ngoại xứ (thập nhị xứ) là vô thường, đau khổvô ngã. Sáu căn đang cháy với sáu trần sinh ra tham đắm, chấp thủ, thì cũng từ nơi sáu xứ này để dập tắt, đoạn trừ chúng. Điều này, theo những bài kinhNhững điều kiện để đạt Niết Bàn’ (S. 35: 147), là con đường thực tập để đạt được Niết bàn. Một con đường khác, được đề cập trong các bản kinh“Sự trống rỗng của Thế giới” (S. 35:85), là để thấy rằng sáu giác quan trống rỗng - trống rỗng về một cái tôi hay cái gì thuộc về tự ngã của tôi. Vì chúng chỉ là sự phát sinh từ sáu căn, sáu trần và sáu thức, nên nó cũng là vô ngã.[1]

Trong một bài kinh, Đức Phật đã nói với chàng trai trẻ Uttara rằng, phòng hộ các căn môn không có nghĩa là đóng bít tất cả các giác quan không cho tiếp xúc với các trần cảnh. Điều này là không có thể. Mà chỉ chánh niệm tỉnh giác, phòng hộ các căn môn không để cho tâm rong ruổi tìm cầu những thứ hư ảo dẫn đến khổ đau. Trong Tương Ưng Bộ kinh, Đức Phật trình bày về phương pháp này như sau:“Và làm thế nào, này các Tỷ kheo, một người luôn phòng hộ các căn môn? “Ở đây, vị Thánh đệ tử, khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ưu, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng… mũi ngửi hương… lưỡi nếm vị… thân cảm xúc… ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ưu, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thiệt hành sự hộ trì ý căn. Như vậy là vị Thánh đệ tử hộ trì các căn”.[2]

Tiếp tục nội dung này, trong Trường Bộ kinh, Kinh Sa Môn Quả, Đức Phật dạy: “Vị ấy, nhờ sự hộ trì cao quý các căn ấy, nên hưởng lạc thọ nội tâm, không vẩn đục.”[3] Hộ trì các căn bằng cách thực tập chánh niệm tỉnh giác, tâm không còn tham luyến với các trần cảnh, tâm an định và bắt đầu phát sinh niềm hỷ lạc. Đây chính là kết quả lợi lạc của pháp môn phòng hộ các căn, tức thực nghiệm một nếp sống sáng suốt, thanh thản, an lạc với cái tâm không còn bị chi phối bởi ngoại cảnh, không còn phản ứng dao động bởi mọi thứ thuận duyên hay nghịch ý. Đến đây, hành giả không còn bị ngoại cảnh chi phối, làm chủ được tâm và bắt đầu đi vào chánh đạo.

Trong kinh Kinh Căn Tu Tập (Indriyabhàvanà sutta), Trung bộ kinh, Đức Phật dạy về phương pháp chế ngự các căn như sau: “Này Ananda, thế nào là vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh? Ở đây, này Ananda, vị Tỷ-kheo, mắt thấy sắc, khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý và bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: "Khả ý này khởi lên nơi ta, bất khả ý này khởi lên nơi ta, khả ý và bất khả ý này khởi lên nơi ta. Cái này khởi lên, vì là hữu vi nên thô. Nhưng cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả". Cho nên, dẫu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý hay khả ý và bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Này Ananda, như một người có mắt, sau khi mở mắt, lại nhắm mắt lại, hay sau khi nhắm mắt, lại mở mắt ra; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên, khả ý, bất khả ý hay khả ý và bất khả ý, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các sắc do mắt nhận thức…[4].Vị ấy cũng thực hành như vậy với các căn còn lại.

Những đoạn văn được trích dẫn ở trên cho thấy hành giả thực hiện lời dạy của Đức Phật để phòng hộ các giác quan có hai nhiệm vụ chính cần phải làm. Một là, vị ấy phải học cách kiểm soát ham muốn của mình đối với thị giác, âm thanh, khứu giác, vị giác, xúc giác và đối tượng tinh thần. Hai là, vị ấy học cách nhìn xem chúng thực sự là những cảm giác nảy sinh phụ thuộc vào sự tiếp xúc giữa các giác quan và đối tượng trần cảnh. Do vậy, bản chất của tất cả những cảm giáckhông thật, chúng là vô thường, biến đổi.

 Tuy nhiên, bài thực tập này đi ngược lại thói quen của xã hội văn minh vốn đề cao chủ nghĩa duy vậtchủ nghĩa duy cảm. Do đó, phần lớn con người vẫn thường sống trong sự chi phối bởi cảm xúc giác quan. Ngành quảng cáo, du lịch, ẩm thực, âm nhạc tập trung đánh vào trọng tâm của thị giác, khứu giác, vị giácxúc giác để thu về lợi nhuận. Như chúng ta đã biết, ham muốn của con người về thị giác, âm thanh, khứu giác, vị giác, xúc giác và các đối tượng tinh thần đã sinh ra cái gọi là nền văn minh của nhân loại. Nhưng chính những ham muốn này, cho đến nay đã vượt quá tầm kiểm soát và đã trở thành một sự thật nghiệt ngã tạo nên mối đe dọa lớn đối với sự tồn vong của nhân loại. Sự mâu thuẫn của nền văn minh hiện đại nằm ở chính nó: trong tâm ích kỷ cố hữu của con người đã vẽ ra một viễn cảnh để con người đạt được mục đích ích kỷ, phục vụ sự thỏa mãn cảm giác. Bất chấp những thành tựu vượt trội của nó, thật khó để giả định rằng một nền văn minh đề cao tính tự trọng và hoạt động theo cách kích thích sự gia tăng ham muốn nhục dục ở con người như hiện nay có thể đảm bảo sự phát triển liên tụclâu dài mà không mang lại sự rắc rối. Kết quả của xu hướng này là từ những suy nghĩ tham lam và hiếu chiến xuất phát từ tính tự cho mình là trung tâm đã mở đường cho mọi tệ nạn trong xã hội. Càng nhiều người tìm kiếm sự thỏa mãn trong các thú vui nhục dục thì thế giới càng rơi vào khủng hoảng. Ngày nay, người đã hiểu được rằng lòng tham hay dục vọng là đầu mối của chiến tranh và các cuộc khủng hoảng toàn cầu như: ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, v.v. Do đó, cách duy nhất để thoát khỏi tình trạng này là thực tập kiềm chế lòng tham dục của con người.

Bằng kinh nghiệm cá nhân Đức Phật đã chỉ ra cho mọi người thấy rằng, một người không thể chinh phục được ham muốn của mình đối với các thú vui giác quan trừ khi bản thân vị ấy trải nghiệm được sự hỷ lạc phát sinh từ hệ quả của sự thực tập thiền định. Điều này cho thấy thiền định của Phật giáo có khả năng điều phục những ham muốn nhục dục và con người có thể tìm kiếm những thú vui khác vượt qua những thú vui giác quan.

Đức Phật gọi những trải nghiệm hạnh phúc sinh ra từ thiền định ‘là hạnh phúc của sự từ bỏ, hạnh phúc của sự xả ly, hạnh phúc của sự an bìnhhạnh phúc của sự tỉnh giác’. Điều này giải thích trong thực tế rằng, những niềm vui sinh ra từ việc kiểm soát phòng hộ căn mônbản chất ôn hòavị tha, trong khi những niềm vui của giác quanbản chất hung hăng và ích kỷ. Do đặc tính của chúng, niềm vui sinh ra từ thiền định trong Phật giáo được gọi là ‘những thứ tuyệt vời, thánh thiện và không sợ hãi’, trong khi những ham muốn giác quan được xem là ‘thấp hèn, xấu xa và đáng sợ’. Từ quan điểm này, chúng ta có thể nói rằng thế giới sẽ thoát khỏi thảm họa do con người tạo ra và phẩm giá con người sẽ tăng trưởng một khi việc chế ngự các căn của Phật giáo trở thành một trong những mục tiêu phấn đấu của toàn thể mọi người.

Ghi chú:

[1] Bhikkhu Bodhi, In the Buddha’ Word, An Anthology of Discourses from the Pāli Canon, Wisdom publications, Boston, 2005, p. 311.

[2] F. L. Woodward, The Book of the Kindred Sayings, Vol.IV, pp.110-11.

[3] Thích Minh Châu, dịch, Trường bộ kinh, Kinh Sa-môn quả, (Sàmannaphala sutta).

[4] Thích Minh Châu, dịch, Trung bộ kinh, Kinh Căn tu tập, https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung152.htm

Giác ngộ, số: 1189

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1363)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1442)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1467)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1373)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1321)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1128)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1235)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1225)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1306)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1335)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1404)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1265)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1369)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1278)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1238)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1311)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1241)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1419)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1672)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1364)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1660)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1261)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1178)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1393)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1256)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1320)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1465)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1704)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1713)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1516)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1711)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1397)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1362)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 1881)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1463)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1413)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1369)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1342)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1436)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1288)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1544)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1535)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1398)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 1399)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1289)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1686)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1442)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1241)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1540)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant