Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Lạc Cúng Dường Kinh Phật

20 Tháng Tư 202317:56(Xem: 1292)
Pháp Lạc Cúng Dường Kinh Phật

Pháp Lạc Cúng Dường Kinh Phật


Nguyễn Mạnh Hùng

hinh phat 1

Tôi đến Cố đô Huế một tuần để tham gia trọn vẹn “Tuần lễ thơ thiền” cùng nhà thơ Nguyễn Duy, đạo diễn Xuân Phượng, luật sư Ngô Tiến Nhân và ban tổ chức cùng quý Phật tử tín tâm. May thay, trong các chương trình có buổi toạ đàm “Lãnh đạo tỉnh thức”  mà tôi cùng doanh nhân Lê Bá Thông và chị Trần Thị Mỹ Yến chia sẻ những trải nghiệm về thiền và tu tập chánh pháp. Tràn ngập an vui.

Về đến Sài Gòn, việc đầu tiên tôi muốn làm ngay là ngồi thiền bên bộ Kinh Phật gốc Nikaya do Hoà thượng Thích Minh Châu dày công dịch ra tiếng Việt trong khói trầm thơm và tâm an yên. Trọn bộ Kinh đầy đủ cả Trường bộ, Trung bộ, Tương ưng bộ, Tăng chi bộTiểu bộ vừa in xong. Kinh lần này là đầy đủ nhất và in trên loại giấy pơ luy siêu nhẹ, bìa simili rất trang trọng, thiết kế, trình bày công phu với khổ lớn 19 x27 cm, với cách dàn trang nén khoảng cách, thêm số dòng của mỗi trang, với bìa cứng, bọc simili nhuyễn của Đài Loan, chữ mạ vàng tựa Kinh và cạnh gáy trong. Rất trang trọng, và đầy năng lượng.

Và tôi muốn dâng ngay bộ Kinh đầy đủ, trọn vẹn, rất đẹp này ngay lập tức lên Thầy của chúng tôiHoà thượng Thích Minh Châu, người Thầy lớn đáng kính mà tôi hay gọi là “Đường Tăng của Việt Nam”.

Tôi liên hệ với thầy Thích Tâm Chánh và hẹn cùng thầy dâng Kinh lên Ôn. Đến nơi thầy đã đón tôi. Tôi trân trọngtrọn vẹn bộ Kinh 9 cuốn trong niềm hân hoan. Tôi nhẹ nhàng đặt lên bàn thờ Ôn Minh Châu. Trước mặt tôi là di ảnh của thầy. Ảnh trắng đen và rất có thần thái, đúng như Thầy mà tôi đã được gặp, được học xưa kia. Tôi đứng thiền một lát và lạy Ôn 3 lạy, 5 vóc sát đất trong những hơi thở nhẹ và êm. Tôi đứng nguyên trong tư thế thiền đứng và tụng Kinh trong tâm hoan hỷ vô cùng, rất khó tả.

Rồi chúng tôi ngồi thiền trà cùng thầy Thích Tâm Chánh. Bên tay trái tôi là chiếc giường nhỏ, cũ, xưa kia Ôn vẫn nằm nghỉ. Chúng tôi thưởng trà và cùng ôn lại những kỷ niệm với Ôn, về Ôn. Hỷ lạc cứ thế tràn dâng.

Chợt tôi nhớ về những câu của Ôn mà tôi nhớ không thể quên “… chúng tôi được tưởng thưởng xứng đáng khi được tận hưởng những Pháp lạc do Chánh Pháp đem lại trong khi phiên dịch. Pháp lạc này ẩn chứa trong từng chữ, từng câu, tiềm tàng trong câu văn, giọng nói, và chính Pháp lạc đã nuôi dưỡng và khích lệ chúng tôi rất nhiều trong công tác phiên dịch này”.

Đó là tâm sự của Hoà thượng Thích Minh Châu. Còn tôi, học trò nhỏ bé của Ôn thì luôn có Pháp lạc khi ngồi đọc Kinh Nikaya, khi tụng Kinh, khi suy nghiệm về từng câu Kinh, khi cúng dường Kinh Phật. Ngay lúc này đây, Pháp lạc đang tràn dâng, cứ thế dâng tràn khi tôi cúng dường trọn bộ Kinh Phật gốc Nikaya này đến Ôn!

Tôi ngồi trầm tĩnh bên tháp Ôn. Tôi nhớ lại những câu từ của Ôn trong lời giới thiệu của Trung Bộ KinhChúng tôi dịch Kinh Pàli, không vì mục đích muốn ủng hộ hay không muốn ủng hộ một học phái nào, một lập trường nào. Mục đích của chúng tôi chỉ muốn giới thiệu những Kinh điển có thể được xem là NGUYÊN THUỶ thủy hay GẦN NGUYÊN THUỶ NHẤT, để người đọc có thể tìm hiểu lời dạy chân chính của đức Phật, khỏi qua ống kính của một học phái nào, dầu là Ấn Độ, Trung Hoa hay Việt NamChúng tôi cũng không có trách nhiệm nêu lên cho độc giả rõ, đoạn nào là nguyên thủy, đoạn nào không phải nguyên thủy. Chỉ có người đọc, sau khi tự mình đọc, từ mình tìm hiểu, tự mình suy tư, tự mình quan sát, tự mình chứng nghiệm trên bản thân, mới có thể tự mình tìm hiểu và thấy đoạn nào là thật sự nguyên thủyTrách nhiệm tìm hiểuchứng nghiệm cá nhân là trách nhiệm của người đọc, không phải của người dịch, vì Đạo Phật là Đạo đến để mà thấy chớ không phải Đạo đến để nhờ người thấy hộ, Đạo của người có mắt (Cakkhumato), không phải Đạo của người nhắm mắt; Đạo của người thấy, của người biết (Passato Jànato), không phải là Đạo của người không thấy, không biết (Apassato Ajànato). Nên chỉ có người đọc mới có thể tự mình thấy, tự mình hiểu và tự mình chứng nghiệm.

Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật, và vì trách nhiệm ấy chúng tôi đã cố gắng phiên dịch Kinh Tạng Pàli ra Việt ngữ. Chúng ta chỉ cần đọc, cần suy tư chính chắn và rồi chính chúng ta tự ý thức đâu là những lời dạy trung thực của đức Bổn sư chúng ta.”

Tôi nhớ lại, lần đầu tiên được đọc những dòng viết này của Ôn vào năm 2008, tôi đã gần như bật khóc. Khóc vì xúc động. Nước mắt cứ thế chảy. Con đã THẤY PHÁP. Con đã CÓ PHÁP của Phật. Có Đường đi rồi con không còn sợ nữa!

Tôi giật mình rất nhiều lần: Nếu khôngHoà thượng Thích Minh Châu dịch Kinh phật gốc Nikaya ra tiếng Việt tôi là người mù, tôi tu mù. Thật là khủng khiếp! Ngày đã cho tôi bảo bối, đã cho tôi Pháp của Phật, cho tôi đường đi sáng mà tôi u mê trong vô minh mấy chục năm nay, không hề biết đến. Cái mốc 2008 được trực tiếp đọc Trung Bộ Kinh lần đầu tiên với 152 bản Kinh thật sự làm tôi chấn động và đã thay đổi hoàn toàn lối sống của tôi.

Ngồi bên tháp của Ôn cùng thầy Thích Tâm Chánh, tôi nhớ lại câu này, câu mà hàng ngàn vạn học trò của Đức Phật đã đều thốt lên khi biết đến Chánh PhápThật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Vậy nay con xin quy y Thế Tôn Gotama, quy y Phápquy y Tỷ-kheo Tăng.”

Tôi cứ thế nhẩm đi nhẩm lại trong đầu rất nhiều lần câu “… Chánh Pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Vậy nay con xin quy y Thế Tôn Gotama, quy y Phápquy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.”

 

Hỷ lạc tràn ngập trong tôi. Pháp lạc cứ thế tuôn trào. Tôi lạy Ôn và chào thầy Thích Tâm Chánh và rời thiền viện Vạn Hạnh để về. Pháp lạc vẫn cứ thế tuôn chảy trong tôi, liên tục. Tôi biết rằng Ôn Minh Châu đã nhập diệt nhưng Pháp mà Ôn đã giảng dạy, Kinh mà Ôn đã dịch vẫn thấm đẫm trong các học trò của Ôn như thầy Tâm Chánh, Tâm Đức, Tâm Hạnh,… và trong hàng ngàn hàng vạn học trò của Ôn, trong đó có tôi.

Sớm nay, thiền toạ xong, tôi lại ngồi ôn lại các bản Kinh do Ôn Minh Châu dày công dịch ra tiếng Việt. Sáng nay tôi đọc Tương ưng bộ Kinh. Và cứ thế những câu từ của Ôn lại tuôn chảy trong tôi …

“…Chúng tôi chỉ có thể nói một cách vắn tắt là Kinh Trung Bộ đặt nặng về phần Chánh Tri Kiến và các phương pháp tu hành, nhất là những tiến trình tu chứng đi từ Giới, Định, Tuệ, Giải thoátGiải thoát tri kiến. Còn Kinh Trường Bộ đặt nặng phần lịch sử, có tánh cách đối ngoại đối với Bà La Môn, du sĩ ngoại đạoKỳ na giáo... Tăng Chi Bộ đặt nặng phần phân tích giáo lý theo pháp số từ số 1 đến số 11. Tương Ưng Bộ đặt nặng phần phân tích giáo lý theo đề tài. Còn đọc Kinh Trung Bộ chúng ta đi sâu vào phần giáo lý và phần hành trì, đặt nặng về những phản ứng tâm lý tế nhị của người tu hành khi đạt đến những quả vị tối cao.

Công trình phiên dịch của tôi, một mặt đáp ứng sở nguyện xuất dương tu học của tôi, một mặt xây dựngnhững tài liệu nghiên cứu đạo Phật cho các Học giả và Phật tử Việt NamLẽ dĩ nhiên trong trách nhiệmhiện tại của tôi, sự phiên dịch đòi hỏi nhiều cố gắng, nhiều dụng công kiên trì và liên tục, nhưng chúng tôi đã được tưởng thưởng xứng đáng, khi được tận hưởng những Pháp Lạc do Chánh Pháp đem lại trong khi phiên dịchPháp Lạc này ẩn chứa trong từng chữ từng câu, tiềm tàng trong từng câu văn giọng nói, và chính Pháp Lạc đã nuôi dưỡng và khích lệ chúng tôi rất nhiều trong công tác phiên dịchnày.

Càng dịch, chúng tôi càng thấy rõ ác ý của các nhà Bà La Môn đã dùng danh từ Tiểu Thừa để gán vào những lời dạy thực sự nguyên thủy của đức Phật và khiến cho các Phật tử không dám đọc, không dám học, không dám tu những pháp môn ấy. Càng dịch, càng thấy rõ dụng tâm hiểm độc của các vị Bà La Môn, đã khôn khéo xuyên tạc đạo Phật, khiến cho những giáo lý căn bản, những tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng nhân loại, đã bị những tư tưởng tà giáo xen lẫn, bị ruồng bỏ, bị che dấu, không được biết đến, không được học hỏi tu hành. Nhưng chân lý bao giờ cũng là chân lýmặt trời bao giờ cũng là mặt trời. Những lời ba hoa của Ma Vương, các cuộc đo tài của những ngọn đèn lẻ tẻ mù mờ, lời lẽ bập bẹ của những kẻ mới tập tểnh đi vào con đường Triết lý, tất cả cũng chỉ là cuồng vọng đen tối, được ánh sáng rực rỡ của chân lý quét sạch.”

Pháp lạc là có thật! Tôi đang thân chứng Pháp lạc. Tu là phải thực chứng, phải trải nghiệm kết quả, phải thân chứng.

Con xin lạy Ôn 10 lạy. Xin nói thầm 1 từ với Ôn thôi, nhưng con xin nói 1 triệu lần “Biết ơn Ôn, biết ơn Hoà thượng Thích Minh ChâuĐường Tăng của Việt Nam”

Sài Gòn 05h30 sáng

TS Nguyễn Mạnh Hùng, Công ty sách Thái Hà

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 784)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 751)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 767)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 743)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 794)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 955)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 992)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 748)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 758)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1289)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1168)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1151)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1033)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1124)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1237)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1206)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1172)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1156)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1743)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1143)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1174)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1287)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1172)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant