Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp ThânSắc Thân Theo Lời Dạy Của Lục Tổ Huệ Năng

07 Tháng Năm 202318:30(Xem: 1346)
Pháp Thân Và Sắc Thân Theo Lời Dạy Của Lục Tổ Huệ Năng

Pháp ThânSắc Thân Theo Lời Dạy Của Lục Tổ Huệ Năng

Nguyễn Thế Đăng

Giải Thoát Qua Cái Thấy

 

Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt. Vấn đề tương quan giữa cái sanh diệt và cái không sanh diệt được Lục Tổ Huệ Năng trực tiếp trả lời cho tăng Chí Đạo và tăng Chí Triệt Hành Xương và quan nội thị Tiết Giản. Sau đó Huệ Trung quốc sư, đệ tử trực tiếp của Lục Tổ cũng có những giảng nghĩa về vấn đề này.

Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu về cái thấy, quan điểm của hai vị về không sanh diệtsanh diệt như thế nào.

 

Có vị tăng tên là Chí Đạo đến xin chỉ dạy, thưa rằng: Kẻ học đạo này từ khi xuất gia xem Kinh Niết Bàn đã hơn mười năm mà chưa rõ đại ý, xin Hòa thượng xuống ơn chỉ dạy.

Sư nói: Ông nghi như thế nào?

Thưa: Tất cả chúng sanh đều có hai thân là sắc thânPháp thân. Sắc thân thì vô thường, có sanh có diệt. Pháp thân thì thường, không tri không giác.

Kinh nói: ‘Sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui’, chẳng rõ thân nào tịch diệt, thân nào thọ vui. Nếu nói sắc thân, thì khi sắc thân diệt rồi, bốn đại phân tán, hoàn toàn là khổ, khổ thì không thể nói vui được. Còn như nói Pháp thân tịch diệt, tức đồng như cỏ cây gạch đá, cái gì thọ được vui?

Lại pháp tánh là cái thể của sự sanh diệt, năm uẩn là cái dụng của sự sanh diệt, một thể năm dụng. Sanh diệt là thường còn, sanh thì từ thể khởi ra dụng, diệt thì thu dụng về thể. Nếu cho rằng có sanh lại tức loài hữu tình chẳng đoạn chẳng diệt. Nếu cho rằng chẳng sanh lại, tức là vĩnh viễn về nơi tịch diệt, đồng với vật vô tình. Như thế thì tất cả các pháp đều bị Niết bàn cấm cản đè nén, sanh còn chẳng được, có gì là vui?

(Phẩm Cơ Duyên)

Thông thường, người bình thườngquan niệm rằng, tất cả chúng sanh đều có hai thân, sắc thân hay thân thể, thì vô thường, có sanh có diệt, còn pháp thân thì thường, không sanh không diệt. Sắc thân do bốn đại hợp thành, thì rõ ràng là có sanh có diệt, đó là khổ.  Còn pháp thân, theo Kinh Đại Bát Niết Bàn, pháp thân là “sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui”. Pháp thânNiết bàn tịch diệt và không chứa sanh tử sanh diệt, nên tăng Chí Triệt nói, “Như thế tất cả các pháp đều bị Niết bàn cấm cản đè nén, sanh còn chẳng được, có gì là vui?”

Đi xa hơn, sự tách biệt không thể hòa giải giữa sắc thânpháp thân là sự tách biệt không thể hòa giải giữa một bên là sanh tử, bên kia là Niết bàn. Từ đó người ta quan niệm rằng phải từ bỏ, thậm chí phá hủy sanh tử để được Niết bàn. Giải thoátgiải thoát khỏi sanh tử để đạt đến Niết bàn, thực tại tối hậu.

Quan niệm từ thô sơ cho đến vi tế này khiến đạo Phật được xem là bi quan, yếm thế, ‘chán đời’.

Sau đây chúng ta phân tích sơ lược những lời của Lục Tổ Huệ Năng cho tăng Chí Triệt để hiểu về quan điểm Đại thừaĐại thừa rốt ráoLục Tổ gọi là “tối thượng thừa” là như thế nào.

Sư nói: Ông là con họ Thích sao lại học tập tà khiến đoạn thường của ngoại đạobàn luận pháp tối thượng thừa? Cứ như ông nói, thì ngoài sắc thân còn có riêng pháp thân, lìa sanh diệt mà cầu nơi tịch diệt, lại suy diễn Niết bàn thường vui mà nói có thân thọ dụng. Ấy là tiếc giữ, mê đắm cái vui thế gian”.

Người bình thường cho đến người thực hành đã hơn mười năm như tăng Chí Triệt cũng khó mà có một chánh kiến về sắc thânpháp thân, cho nên tăng Chí Triệt phải đi gặp một vị Tổ, một đạo sư để quyết trạch, giải quyết, xác định cho.

Nếu thực sự đạt được một phần pháp thân, người ấy sẽ tin và thấy hiểu rằng pháp thânsắc thân không tách biệt. Pháp thân, với trí huệtừ bi, có thể bao trùm sắc thân, bao trùm sanh tử, để chuyển hóa mà không loại bỏ sắc thânsanh tử thành Niết bàn pháp thân.

Ông nay phải biết: Phật vì tất cả các người mê, họ nhận năm uẩn hòa hiệp làm tướng ngoại trần, rồi ham sống ghét chết, niệm niệm trôi lăn, chẳng biết là mộng huyễn hư giả, uổng chịu luân hồi, lấy Niết bàn thường lạc chuyển thành tướng khổ mà trọn ngày cầu kiếm”.

Người thực hành cần dùng thiền địnhthiền quán để thấy điều này. Ai là kẻ dẫn dắt mình vào sanh tử? Thế nào, nói như Kinh Lăng Nghiêm là “bội giác hiệp trần”, (phản bội lại tánh giác nơi mình mà hòa hiệp và chạy theo trần tướng)?

Niết bàn pháp thân vốn có sẳn, thậm chí người ta vẫn luôn luôn ở trong đó: “lấy Niết bàn thường lạc chuyển thành tướng khổ mà trọn ngày cầu kiếm”. Chỉ vì nhận các tướng ngoại trần cho là thực tại rốt ráo, bỏ quên “Niết bàn thường lạc” vốn là bản tánh, là nền tảng của mọi xuất hiện hình tướng, nên trôi lăn theo các tướng khiến tạo ra sanh tử khổ đau.

Cho nên để có thể chuyển hóa sanh tử thành Niết bàn, Lục Tổ dạy phải thấy tánh, nghĩa là thấy biết bản tánh của các tướng kết thành sanh tử. Bản tánh của tất cả các tướng chính là pháp tánh, pháp thân, Niết bàn. Thấy biết bản tánh của các tướng thì y vào nền tảng ấy của các tướng mà chuyển hóa chúng. Như thế là pháp thân hóa, Niết bàn hóa toàn bộ sanh tử. Không cần phải từ bỏ hay hủy hoại sanh tử, vì bản tánhhiện tướng của sanh tửNiết bàn, là Pháp thân.

Thấy tánh tức là thấy thật tánh. Thật tánh này là tánh không hai của tất cả các pháp, tánh không hai của sanh tửNiết bàn, của tướng và tánh:

Tiết Giản bạch: Thế nào là kiến giải Đại thừa?

Sư nói: Sáng và không sáng, người phàm thấy là hai; người trí thì rõ thông tánh chúng không có hai, tánh không hai tức là thật tánh. Thật tánh này nơi phàm ngu chẳng giảm, nơi hiền thánh chẳng tăng, trụ phiền não mà chẳng loạn, ở thiền định mà chẳng lặng, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đến chẳng đi, chẳng ở giữa hay ở ngoài, chẳng sanh chẳng diệt, tánh tướng như như, thường trụ chẳng đổi, gọi đó là Đạo”.

(Phẩm Hộ Pháp)

Vì thế Phật thương xót nên chỉ bày Niết bàn chân lạc, trong sát na không có tướng sanh, trong sát na không có tướng diệt, lại không có sanh diệt nào để diệt, đây là tịch diệt hiện tiền. Đang khi hiện tiền cũng không có cái lượng hiện tiền, mới gọi là thường lạc.

Cái lạc này không có người thọ cũng không có người không thọ, thế thì làm sao có tên một thể năm dụng? Huống gì lại nói Niết bàn cấm ngăn các pháp, làm cho vĩnh viễn chẳng sanh. Đó là báng Phật nhạo Pháp”.

Ở đây chỉ đề cập đến “một thể năm dụng”, liên quan đến chủ đề của bài này. Một thểbản tâm, là pháp thân, năm dụng là năm giác quan, là sắc thân. Đối với tăng Chí Triệt, pháp thân thì không sanh không diệt, là Niết bàn, là thường lạc, còn sắc thân thì sanh diệt, là sanh tử, là khổ đau. Nhưng theo lời dạy của Lục Tổ, với người đã chứng nhập phần lớn pháp thân (ở những địa cao trong mười địa pháp thân) thì tất cả là không sanh không diệt, tất cả là Niết bàn, tất cả là thường lạc.

Sự phân biệt pháp thânsắc thân, Niết bànsanh tử, lạc và khổ, có thể nói là vấn đề lớn nhất đối với những người thực hành đạo Phật. Chỉ thế hệ sau, quốc sư Huệ Trung, đệ tử trực tiếp của Lục Tổ, đã trả lời cho một vị tăng như thế này, ở đây chỉ trích ra một đoạn:

“Quốc sư nói: Phật tánh ngay đây của tôi hoàn toàn không có sanh diệt. Phật tánh phương nam của ông thì nửa sanh nửa diệt, nửa chẳng sanh diệt.

Hỏi rằng: Phân biệt chỗ nào?

Quốc sư nói: Đây thì thân tâm nhất như, ngoài thân không có gì khác, thế nên toàn vẹn chẳng sanh diệt. Còn phương nam của ông thì thân là vô thường, thần tánh là thường, bởi thế mà nửa sanh nửa diệt, nửa chẳng sanh diệt”.

Lục Tổ nói tiếp cho tăng Chí Triệt bằng một bài kệ:

Hãy nghe kệ ta:

Vô thượng đại Niết bàn
Tròn sáng thường lặng chiếu
Phàm ngu gọi là chết
Ngoại đạo chấp là đoạn.
Các người cầu Nhị thừa
Thấy đó là vô tác
Đều thuộc tình suy tính
Gốc sáu hai kiến chấp
Vọng lập tên hư giả
Đâu phải chân thật nghĩa.

Niết bàn không phải là “chết”, là “đoạn”, không còn cái gì cả; không phải là “vô tác”, không có hoạt động nào cả; nói theo tăng Chí Triệt ở trên, “thì tất cả các pháp đều bị Niết bàn cấm cản đè nén”.

Sở dĩ có đủ thứ kiến chấp như vậy bởi vì đều nằm trong thức tình, “đều thuộc tình suy tính”, chưa chuyển hóa thức thành trí được.

Chỉ người vượt thức lượng
Thông đạt, không lấy bỏ
Vì biết pháp năm uẩn
Và ngã trong năm uẩn
Ngoài hiện các sắc tượng
Tất cả tướng âm thanh
Bình đẳng như mộng huyễn.
Không khởi (cái) thấy phàm thánh 
Không tạo (cái) thấy Niết bàn
Hai bên, ba thời dứt.

Niết bàn là không có ngã (vô ngã) và không có pháp (vô pháp); không còn sự phân biệt giả lập thành ngã và pháp. Như Thành Duy Thức Luận của Bồ tát Thế Thân, phần mở đầu, nói:

Do giả nói ngã - pháp
Có tướng ngã - pháp chuyển
Chúng nương thức biến hiện
Thức năng biến có ba.

Người vượt khỏi thức lượng thì không còn sống trong thức phân biệt mà sống trong trí, do đó không có không gian thời gian, “chỉ người vượt thức lượng, thông đạt (pháp thân) không lấy bỏ”. Người sống trong pháp thân thì không còn khởi phân biệt phàm thánh, sanh tử Niết bàn, không lấy không bỏ, cho nên “hai bên, ba thời dứt”.

Thường ứng dụng các căn
Mà chẳng khởi dụng tưởng
Phân biệt tất cả pháp
Chẳng khởi tưởng phân biệt.
Kiếp hỏa đốt cháy biển
Gió thổi núi chọi nhau
Chân thường tịch diệt lạc
Tướng Niết bàn như vậy.
Ta nay cưỡng nói ra
Khiến ông bỏ tà kiến
Ông chớ theo lời hiểu
Cho ông biết ít phần.

Chí Đạo nghe nói đại ngộ, hớn hở làm lễ rồi lui ra”.

Với người đã nhập vào pháp thân, thì các căn không bị phế bỏtrở thành chỗ ứng dụng của pháp thân, các căn được chuyển hóa thành Thành sở tác trí, trí làm việc và thành tựu những công việc ở cuộc đời vật chất (Xem Kinh Phật Địa, Đương Đạo dịch và giảng).

Tăng Chí Đạo nghe giảng xong thì đại ngộ, tức là vào được cửa pháp thân, “nhất niệm tương ưng”. Để chứng đắc hoàn toàn pháp thân như Lục Tổ, còn phải tu tập nhiều để “niệm niệm tương ưng”. Thế nên Lục Tổ mới nói, “Ta nay cưỡng nói ra, khiến ông bỏ tà kiến, ông chớ theo lời hiểu, cho ông biết ít phần”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1308)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1591)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2089)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1841)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1207)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1390)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1394)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1673)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1444)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1314)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1462)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1395)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1708)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1418)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1360)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1376)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1454)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1634)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1535)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1489)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1353)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1451)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1156)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1337)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1497)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2837)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1502)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1675)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1552)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 1995)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1536)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1734)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1941)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2120)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1589)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2556)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1667)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1844)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1792)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1555)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2305)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1743)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1798)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1670)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2040)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2025)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2170)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1673)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 1991)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant