Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chiếc Áo Không Làm Nên Nhà Sư

Monday, July 22, 202419:01(View: 438)
Chiếc Áo Không Làm Nên Nhà Sư
Chiếc Áo Không Làm Nên Nhà Sư 

Thích Tâm
 Nhãn


chu tang

Thành ngữ người Việt thường nghe “Chiếc áo không làm nên nhà sư”, nghĩa bóng của nó như một lời nhắc nhở mọi người, đừng vội đánh giá người khác qua hình thức bên ngoài.

Nhưng trong đạo, “chiếc áo không làm nên nhà sư” lại có ý vị sâu xa khác, ví dụ một nhà sư vì hoàn cảnh binh đao hay thời kỳ tao loạn, ảnh hưởng tính mạng, khoác áo thường dân để ẩn dật thì dù mặc y phục kiểu gì, lúc ấybản thể của Tỳ-kheo cũng không mất đi.

Bình nhật trở lạinhà sư cũng không thể mặc hoài y phụcthế gian là thành ông sư, “chiếc y làm nên nhà sư”. Song, trọng ca-sa hay trọng giới thể đó là điều chúng ta cần bàn.

Câu chuyện trong chùa. Tôi có vị sư huynh đang tu họctheo hệ Phật giáo Bắc tôngsinh hoạt tại một ngôi cổ tự - Sài Gòn, sư huynh thọ giới Cụ túc năm 1991, nay có ý muốn chuyển sang Phật giáo Nam tông. Vì nghĩ rằng chiếc y của mình đang khoác không phải màu y của Phật giáo nguyên thủy chính thốngtuy nhiên còn phân vân chưa dứt khoát, với lý do nếu qua đó phải làm Sa-di và thọ giới Cụ túc lại từ đầu…

Giới thể vô biểu

Trong Phật giáo Bắc tông có hai vị Trưởng lão kỳ túc đã đổi y từ Bắc tông sang Nam tôngnhưng không hề thọ giới lại theo truyền thống Nam truyền, đó là Hòa thượng Thích Minh Châu và Hòa thượng Thích Đỗng Minh.

Năm 1978, Hòa thượng Đỗng Minh bị bắt, sau hai năm ở tù trở về, Ôn đổi y Bắc tông sang y Nam tông, không vì chuyện này mà nói rằng giới thể “vô biểu” của Ôn bị mất hoàn toàn. Thầy Tuệ Sỹ viết về Ôn: Hòa thượng là một số rất ít trong các Tỳ-kheo trì luật của Tăng-già Việt Nam kể từ khi Phật giáo được trùng hưng, Tăng thể được chấn chỉnh và khôi phục… Ngài xứng đáng là bậc Long Tượng trong chốn tòng lâmđời sống phạm hạnh nghiêm túc, phản chiếu giới đức sáng ngời, tịnh như băng tuyết1. Và khi Ôn viên tịchHòa thượng Trí Quangkính tiến tán tụng: “Kính cúng dường bậc Đại đức tôn quý trong hàng tứ chúngmột đời trì luật, thuận Giới giải thoát (prātimokṣa)” (Phụng cúng chúng trung tôn, thiện thuận giải thoát giới 奉供眾中尊善順解脫戒)2.

Vị Tôn trưởng thứ hai, Hòa thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành, Quảng Nam. Năm 1946, Hòa thượng xuất gia đầu sư với ngài Tịnh Khiết (Đức Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN) tại tổ đình Tường Vân, thành phố Huế. Năm 1949 (Kỷ Sửu) thọ Cụ túc giới tại Giới đàn Hộ Quốc chùa Báo Quốc.

Năm 1952, Hòa thượng du học tại Sri Lanka, sau đó sang Ấn Độ học tại Đại học Bihar. Tháng 4 năm 1964, trở về nước, Hòa thượng làm Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh3... Hòa thượng thọ giới theo truyền thống Bắc tông (Pháp tạng bộ) rồi chuyển y Nam tông, thời điểm chuyển y không thấy sử liệu nào ghi chép, có thể là trong giai đoạn du học?

Từ thời Phật, khi Ngài chế định việc truyền giới Cụ túc phải hiện diện 10 vị Tỳ-kheo mới đủ thẩm quyền để tiến hành việc truyền giới Cụ túc và nghi thức được tiến hành thông qua ba lần hỏi (yết-ma) lấy biểu quyết của Tăng, và một lần tác bạch thưa thỉnh trước đó là bốn lần, gọi là Bạch tứ yết-ma (jñapticaturthaṃ karma)4, cho đến nay cả hai hệ: Phật giáo Nam tông y cứ trên luật tạng Pāli và Bắc tông y cứ hệ luật Tứ phần đều thực hiện như nhau.

Và theo các nhà Hữu bộ luận giải, khi giới tử phát sinh tâm niệm cầu thọ Cụ túc giới, được dẫn vào trước Tăng, thành khẩn nói những lời cầu thỉnh giới sư v.v… cho đến khi Tăng đã thực hiện một lần tác bạch và ba lần yết-ma, tất cả những diễn tiến này đều được gọi là gia hành của nghiệp đạo. Sau khi Tăng đã hoàn tất Bạch tứ yết-magiới thể vô biểu đã phát sinh nơi giới tử.

Vô biểu (Skt. avijñapti, 無表) là những thế lực điều động các hoạt động của thân và ngữ, không biểu lộ ra bên ngoài cho người khác có thể thấy. Thế lực đó là khả năng phòng hộ của giới. Nó giống như sự phản xạ có điều kiện của một người học võ do tập luyện lâu ngày, có khả năng phòng vệ sinh mạng của mình trong bất cứ lúc nào và dưới bất cứ trường hợpnào5. Và năng lực phòng hộ này chỉ mất với những trường hợp như sau:

Luật Pāli (Vin. 3. 26), Tứ phần (p.571b12) v.v… giải thích: thứ nhất, đối diện với người có khả năng hiểu mình muốn nói gì, tuyên bố từ bỏ học xứ, như nói: “Tôi bỏ Phật, Pháp, Tăng, … xả giới, xả luật, muốn làm cư sĩ…” là mất giới. Thứ hai là phạm ba-la-di (pārājika) là mất giới. Luận Câu-xá6 giảng thêm: Mất giới khi mạng chung (xả tụ đồng phần 捨聚同分); bị lưỡng tính ái nam ái nữ (nhị căn chuyển sinh 二根轉生); thiện căn bị đoạn (善根斷), như khởi tà kiếnkhông tin nhân quả, tham, sân, si trỗi dậy làm mất thiện căn, mất giới. Không thấy giáo nghĩanào nói, một Tỳ-kheo thay đổi y phục sang hệ phái cùng tông phái Phật giáo là mất giới. Ngoại trừ Tỳ-kheo nào ưa thích muốn làm đệ tử ngoại đạo (titthayasāvakabhāvaṃ patthayamāno), cải tông mới mất giới hoàn toàn. Vậy vì sao Phật giáo Nam tông không chấpnhận giới thể của hệ Bắc tông thọ trì theo hệ Tứ phần - Pháp tạng bộ?

Tư tưởng tự tôn của tông phái

Mặc dù, Hòa thượng Minh Châu và Ôn Đỗng Minh đổi y nhưng Phật giáo Nam tông tại Việt Nam lúc bấy giờ cũng không công nhận là được “chân truyền”. Sự thật lịch sử:

Tháng 4-1976, Pol Pot lên nắm quyền Campuchia, bãi bỏ mọi tôn giáotiêu diệt các nhà sưPhật giáo. Năm 1978, Việt Nam giúp Campuchia lật đổ chế độ Pol Pot và phía chính quyền Việt Nam muốn giúp Phật giáo Nam tông tại đây được khôi phục, cho nên tổ chức một phái đoàn Phật giáo Nam tông từ Việt Nam sang truyền giới cho các nhà sư Campuchia.

Theo tài liệu của Đỗ Trung Hiếu ghi chép, phái đoàn gồm 12 người: 1. Hòa thượng Bửu Chơn (trưởng đoàn); 2. Hòa thượng Giới Nghiêm (phó đoàn); Thượng tọa Siêu ViệtThượng tọa Minh ChâuThượng tọa Thiện Tâm v.v... Ngày 17-9-1979, đoàn Phật giáo Việt Nam lên đường. Đến nơi, chiều ngày 18,... Tiếp ngày hôm sau, đúng 9 giờ sáng ngày 19-9 (1979), lễ xuất gia được tổ chức tại chùa Ounalon (chùa lớn nhất Phnôm Pênh, nơi vua sãi ở). Có 7 vị sư Campuchia xuất giaHòa thượng Giới Nghiêm làm thầy tế độThượng tọa Siêu ViệtThượng tọa Thiện Tâm làm Yết-ma, các vị khác làm thành viên của buổi lễ. Riêng Thượng tọa Minh Châu vì là Bắc tông nên chỉ tham dự với tư cách khách danh dự7.

Vì sao Hòa thượng Minh Châu không được tham dự chính thức, nếu nói do ngài không thạo tiếng Campuchia thì điều này không hợp lẽ, trong phái đoàn cũng có Thượng tọa Thiện Tâmkhông biết tiếng Campuchia, lại làm Yết-ma. Tập tài liệu của ông Hiếu có nhấn mạnh rõ ràng: “Ngoài Thượng tọa Minh Châu, tất cả sư đều là Nam tông”.

Trường hợp của Ôn Đỗng Minh cũng không ngoại lệ, Ôn từng kể cho chúng tôi nghe, có lần Ôn muốn nghiên cứu cách thức tác pháp yết-ma của Tăng-già Nam tông, Ôn đến tham dựnhưng chỉ dự khán, ngồi bên ngoài Sīmā, tức chỉ cho cương giới của Tăng Nam tông yết-ma truyền giới Cụ túc. Vì Ôn không phải túc số của Tăng, ngồi vào trong thì buổi lễ yết-ma đó sẽ bất thành.

Nghi thức truyền giới Cụ túc của hai hệ Nam tông và Bắc tông tuy sai khác về văn bản tụng đọc và lễ nghi tổ chức nhưng túc số Tăng để yết-ma cũng 10 vị Tỳ-kheo mà thôi. Bên Bắc tông có thêm vị dẫn thỉnh (điển lễ) và bốn vị giám đàn, xét trên nguyên tắc những người này không cần thiết, chỉ ảnh hưởng tập tục nghi tiết của Trung Quốc, họ không được tính trong túc số Tăng 10 vị.

Theo chúng tôi biết, hiện nay tại Việt Nam, cả hai hệ phái tổ chức giới đàn, trong túc số 10 vị không thấy có sự thỉnh mời tham dự xen lẫnGiả thuyết, sư Bắc tông không thể tụng đọc Pāli, hay sư Nam tông không biết tụng đọc âm Hán-Việt, nên không thể ngồi chung; hoặc lý luận, bên nào quen với truyền thống bên đó, càng không đúng. Phải chăng chính do đôi bên tự tôn tông phái, nảy sinh tính kỳ thị, mới có chuyện không chấp nhận nhau và có thành kiếnvới y phục, cả sự đắc giới của đôi bên. Thời xưa, những vùng miền linh hoạt luật học thì không bao giờ có chuyện này.

Giới đàn hiện diện nhiều bộ phái

Sử liệu lưu truyền, vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch, Mahinda (摩哂陀, Ma-sẩn-đà) con trai vua A-dục (Aśoka) nhận Moggaliputta Tissa (目犍連子帝須, Mục-kiền-liên Tử Đế-tu) làm Hòa thượng bổn sư (upādhyāya), Mahādeva (大天 Đại Thiên) là Hòa thượng (A-xà-lê, ācārya, 阿闍黎) truyền 10 giới Sa-di; Madhyāntika (摩闡提 Ma-xiển-đề) là Hòa thượng (A-xà-lê) truyền giới Cụ túc.

Trong một giới đàn có ba hệ phái cùng tham dự: Moggaliputta Tissa là người Phân biệt thuyết bộ (Vibhajyavādin), Mahādeva là phái Đại chúng (Mahāsaṅghika), Madhyāntika là Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin)8. Mahinda chính là Sơ tổ Phật giáo Nam tông bây giờ. Mahinda cùng các vị đại đức Iṭṭhiya (Iddhiya), Uttiya, Bhaddasāla và Sambala đến Tích Lantruyền giáo theo sắc lệnh vua cha và nhóm này hình thành Thượng tọa bộ, còn gọi Đồng diệp bộ (Tāmraśāṭīyas, bộ phái mặc màu y lá đồng đỏ)9, cho đến tận ngày nay dấu chân hoằng hóa của họ phát triển khắp nơi trên thế giới.

Tại Trung Hoa, thời kỳ đầu Phật giáo du nhập, lúc này Tăng sĩ chỉ cạo tóc xuất giathọ trì tam quy ngũ giới, không có luật nghi. Đến năm 250, niên hiệu Gia Bình thời Tào Ngụy, Đàm-ma-ca-la (Dharmakāla) người Ấn Độ đến Lạc Dương, dịch Tăng-kỳ giới tâm; năm 254, niên hiệu Chánh Nguyên, Sa-môn Đàm-đế người An Tức cũng đến Lạc Dương dịch Đàm-vô-đức bộ Tứ phần giới bổn, thỉnh đủ 10 vị Phạn tăng tổ chức pháp yết-ma truyền giới Tỳ-kheo. Đó là giới đàn truyền giới Tỳ-kheo đầu tiên tại Trung Hoa. Không rõ 10 vị Tăng được thỉnh mờithuộc tông nào nhưng theo tư liệu Hán dịch nói rằng Đàm-ma-ca-la và Đàm-đế thuộc tông Pháp tạng bộ trì Luật Tứ phần10.

Về Ni giớiCho đến đời Tấn, niên hiệu Thăng Bình (357), Sa-môn Đàm-ma-kiết-đa lập giới đàn truyền giới Tỳ-kheo-ni cho Tịnh Kiểm và bốn cô nữa. Đây được kể là Tỳ-kheo-ni đầu tiên tại Trung Quốc, nhưng không đủ nhị bộ Tăng, mà trực tiếp truyền từ Tỳ-kheo Tăng. Vì bấy giờ Trung Quốc chưa có Ni thì không thể đủ hai bộ để truyền như luật định. Đàm-ma-kiết-đa cho rằng giới từ Đại Tăng mà có, nay Đại Tăng đủ số thì có thể truyền.

Sau đó, vào năm Nguyên Gia 6 (429), có Sa-môn Cầu-na-bạt-ma (Guṇavarma) đến Trung Quốcni cô Huệ Quả đem vấn đề thọ giới đắc pháp ra hỏi, ngài trả lời: không đắc, vì không đủ nhị bộ Tăng. Lúc bấy giờ tại Trung Quốc có 8 vị Tỳ-kheo-ni từ Tích Lan sang, nhưng Cầu-na-bạt-ma cho là chưa đủ số thập sư nên chưa chịu tổ chức giới đàn. Theo lời khẩn cầu của các Ni cô bấy giờ, Cầu-na-bạt-ma cử người sang đảo Sư Tử, tức Tích Lan ngày nay, thỉnh thêm cho đủ Thập ni để truyền giới.

Về sau, có thêm Thượng tọa ni Thiết-sách-la cùng bốn vị nữa từ đảo Sư Tử sang, nhưng bấy giờ Cầu-na-bạt-ma đã tịch. Giới đàn khi ấy do Tăng-già-bạt-ma (Saṃghavarman) tổ chức, đủ túc số hai bộ Tăng truyền giới Tỳ-kheo-ni. Đây gọi là chính thức Tỳ-kheo-ni như pháp được truyền thọ tại Trung Quốc11. Chúng ta thấy, giới đàn Ni, trong 10 vị Tăng, Tăng-già-bạt-ma là người Hữu bộ, những vị Tăng khác có thể Pháp tạng bộ hoặc Hữu bộ, còn thập sư Tỳ-kheo-ni là Đồng diệp bộ (Phật giáo Nam tông).

Luận kết

Giới thể của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni được thẩm định từ người hành trì Phạm hạnh và thọ giớiđúng pháp yết-ma, chứ không đánh giá hình thức bề ngoài sắc phục là tông phái nào. Giáo pháp và quy chế của Phật vừa cố định vừa quy ước, nó đã thích nghi với một xã hội Ấn Độtrước thế kỷ thứ V trước Tây lịch.

Về sau, Phật giáo truyền đến các nước, chư Thánh đệ tử đã linh hoạt với nếp sống hòa nhập, sao cho không trái phạm với nền tảng giới luật của Phật chế. Mục đích giữ luật không phải cực đoan, cục bộ hay tự tôn tông phái. Ngày nay Phật giáo Bắc tông là Pháp tạng bộ(Dharmaguptaka), hệ thống kinh điển và Luật tạng gần như là bản sao của Phật giáo Nam tông.

Phật giáo Nam tông hay gọi Phật giáo Nam truyền cũng xuất phát từ Phân biệt thuyết bộ(Vibhajyavādin), Tam tạng thánh giáo và nếp sống gần nguyên thủy, chứ hoàn toàn không phải Phật giáo nguyên thủy. Chính Bhikkhu Bodhi là nhà sư Nam tông cũng công nhận điều này12. Nếu nói là Phật giáo nguyên thủy là chỉ cho Phật giáo tiền bộ phái (Pre-sectarian Buddhism) hay gọi Phật giáo sơ kỳ (Early Buddhism), tức chỉ cho thời Đức Phật tại thế và kéo dài đến triều đại vua A-dục (Aśoka) (c. 268 đến 232 BCE) mà thôi13.

Năm 1998, tại Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) Ấn Độ, tổ chức giới đàn truyền giới Cụ túc, với sự hiện diện đầy đủ của nhị bộ Tăng-già, bên Tăng có sư Nam tôngBắc tông, bên Ni là các Tỳ-kheo-ni Đài Loan. Trong giới đàn có một số giới tử Ni đến từ Tích Lan (Sri Lanka), Nepal… Thế nhưng những giới tử Ni đến từ Tích Lan (Sri Lanka) đã bị Giáo hội Tăng-già tại Tích Lan từ chối sự đắc giới của họ, cho rằng đó là giới pháp của Đại thừa (Mahāyāna)14. Sự thật này có ghẻ lạnh, vô cảm đến mấy thì Tăng đồ Nam tông cũng không thể quên đi lịch sử quá khứ, Mahinda Sơ tổ Phật giáo Nam tông đã đắc giới từ ba vị thầy thuộc ba bộ pháikhác nhau, trong đó Mahādeva là phái Đại chúng phát triển thành Phật giáo Đại thừa sau này.

(Tưởng niệm Ân sư Tuyên Luật sư Thích Đỗng Minh, viên tịch 11-5-Ất Dậu - 2005)

Tâm Nhãn

-------------------------------------------------------------

(Giác Ngộ giữ văn phong và quan điểm cũng như các xưng hô của tác giả, chỉ xử lý về kỹ thuật theo quy định của tòa soạn).

1. Tự ngôn trong bản Việt dịch Luật Tứ phần, thầy Tuệ Sỹ viết tại Quảng Hương Già-lam, Cuối Đông, 2549.

2. Kỷ yếu Tưởng niệm Tôn sư, tr.71.

3. https://giacngo.vn/tieu-su-truong-lao-htthich-minh-chau.

4. Luật tạng: Thập tụng: p.148b12-17; Tứ phần: p.799c12-29; Ngũ phần: p.111b2-23, 25; Pāli: I, 28, 3-6, 31, 2; Tăng-kỳ: cf. pp.412b26 - 413a6, p.416b7-10.

5. Tuệ Sỹ, Yết-ma yếu chỉ (2011), chương i và chương iii.

6. 《阿毘達磨俱舍釋論》卷11, T29, no. 1559, p.235c3.

7. https://vi.wikipedia.org/wiki/Pol_Pot & “Thống nhất Phật giáo Việt Nam – 1994”, tr. 8-11, Đỗ Trung Hiếu.

8. 印順導師, 初期大乘佛教之起源與開展, p.409.

9. Dīpavasa (Đảo vương thống sử, ch. VIII), Mahāvasa (Đại vương thống sử, ch. XII), Samantapāsādikā (Nhất thiết thiện kiến luật chú, pp.63, 19-69, 15); Chuan Cheng, Designations of Ancient Sri Lankan Buddhism in the Chinese Tripitaka (Journal of the oxford centre for buddhist studies, vol. 2), p.104.

10.《四分律刪繁補闕行事鈔》卷2, T40, no. 1804, p.51c4 & 《佛祖統紀》卷29, 35, T49, no. 2035, p.296c7, p.332a12.

11.《四分律刪繁補闕行事鈔》卷2, p.51c4; 《高僧傳》卷3, T50, no. 2059, p.342b11; Tuệ Sỹ, Một thời truyền luật.

12. Bhikkhu Bodhi, The revival of Bhikkhunī ordination in the Theravāda tradition, p.35-36.

13. Griffiths, Paul J. (1983) “Buddhist Jhana: A Form-Critical Study”, Religion 13, pp.55–68. & Collins, Steven (1990) “On the Very Idea of the Pali Canon”, Journal of the Pali Text Society 15, pp.89–126.

14. Bhikkhu Bodhi, p.36.

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 1761)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(View: 1637)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(View: 1537)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(View: 1725)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(View: 1628)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(View: 1561)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(View: 1607)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(View: 1525)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(View: 1870)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(View: 1522)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(View: 1723)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(View: 1865)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(View: 2276)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(View: 1937)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(View: 2022)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(View: 1772)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(View: 1605)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(View: 1623)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(View: 1684)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(View: 1475)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(View: 2286)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(View: 2120)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(View: 2050)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(View: 1927)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(View: 2059)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(View: 2126)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(View: 2224)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(View: 2000)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(View: 1912)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(View: 1993)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(View: 2058)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(View: 2012)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(View: 2175)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(View: 2076)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(View: 2064)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(View: 2219)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(View: 2011)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(View: 2038)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(View: 2139)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(View: 3139)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(View: 2207)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(View: 2203)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(View: 1974)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(View: 2338)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(View: 2288)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(View: 1988)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(View: 1950)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(View: 2051)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(View: 1983)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant