Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thành Trì Vững Chắc Của Người Tu

Friday, July 26, 202419:11(View: 405)
Thành Trì Vững Chắc Của Người Tu
Thành Trì Vững Chắc Của Người Tu

Thích Nguyên Hùng


12

Một thời Đức Phật trú tại nước Xá-vệ, ở trong Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: “Như vương thành ở biên giới có đầy đủ bảy điều kiện và bốn thứ lương thực sung túc dễ tìm không khó; do đó vương thành không bị ngoại địch đánh phá, ngoại trừ tự phá hoại từ bên trong.

Cũng vậy, nếu Thánh đệ tử cũng được bảy thiện pháp và bốn tăng thượng tâm, dễ được không khó, vì thế Thánh đệ tử không bị ma vương lung lạc cũng không theo pháp ác bất thiện, không bị ô nhiễm bởi phiền não, không còn thọ sanh trở lại”1. Bảy thiện pháp ấy là: tín kiên cố, tàm, quý, tinh tấnhọc rộng nghe nhiều, chánh niệmtrí tuệ. Bốn tăng thượng tâm ở đây là bốn thiền, từ Sơ thiền đến Tứ thiền. Bài viết này chỉ trình bày bảy lớp thành trì vững chắc bảo vệngười tu không bị ma vương lung lạc.

1. Thành trì thứ nhất là tín kiên cốniềm tin vững chắc. Tín, tiếng Phạn là śraddhā, chỉ cho niềm tin trong sángthanh tịnh; đối với Phật, Bồ-tát, giáo pháp, Tăng-già không hề khởi niệm nghi ngờ. Tín là một trong mười pháp thiện địa, hay là một trong mười một tâm sở thiện. Tín kiên cố là niềm tin vững chắc, có gốc rễ, không bao giờ thay đổi, thối thất với nội hàm mười ý nghĩatrong sángquyết địnhhoan hỷ, không mệt mỏitùy hỷtôn trọngtùy thuậntán thán,bất hoại và ái lạc.

Trong quá trình tu học Phật pháptín tâm được xem là yếu tố tối quan trọng cho bước chân đầu tiên vào đạo. Bởi vậy, kinh Hoa nghiêm nói: “Niềm tin là mẹ đẻ của bao công đức, nó nuôi lớn mọi thiện pháp, xé toang lưới nghi, vượt thoát sông ái, khai mở cửa Niết-bàn vô thượng”2.

Luận Đại trí độ cũng nói, Phật pháp như biển lớn, có niềm tin ắt sẽ vào được. Lại nói, một người mà trong tâm có niềm tin thanh tịnh thì chắc chắn người đó sẽ vào được Phật phápnếu không có niềm tin thì không thể vào được3. Do đó, tín đứng đầu trong năm căn (tín, tấn, niệm, định và tuệ). Không có niềm tin vững chắc thì không có động lực siêng năng tu hành, không thể bảo vệ được mình trước những cám dỗ của cuộc đời, lại càng không thể thành tựuđược đạo nghiệp giải thoát.

Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới xây cất vọng gác, đắp đất cho chắc không thể phá vỡ, để bên trong được an ổn và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử có tín kiên cố, tin sâu nơi Như Laitín căn đã lập, trọn không theo Sa-môn, Bà-la-môn, ngoại đạo, cũng như Thiên maPhạm thiên và các hạng thế gian khác. Đó là Thánh đệ tử có vọng gác tín tâm để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.

2. Thành trì thứ hai là tàm. Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới đào hào vét ao thật sâu rộng, sửa sang thật vững chắc, để có thể nương tựa, làm cho bên trong được an ổn, và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng thế, Thánh đệ tử luôn sống biết tàm, điều đáng xấu hổ biết xấu hổxấu hổ pháp ác, bất thiệnphiền não cấu uế, là thứ khiến thọ các ác báo, tạo gốc rễ sanh tử. Đó là Thánh đệ tử có hồ ao tàm sỉ, trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.

3. Thành trì thứ ba là quý. Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới dọn dẹp những con đườngnối liền chung quanh cho bằng thẳng rộng rãi để bên trong được an ổn và chế ngự oán địchbên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử luôn sống biết quý, điều đáng thẹn biết thẹn, thẹn pháp ác, bất thiệnphiền não cấu uế là thứ khiến thọ các ác báo, tạo gốc rễ sanh tử. Đó là Thánh đệ tử có con đường bằng thẳng hổ thẹn để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.

Như vậy, tàm là tự thấy xấu hổ với lỗi lầm của mình; quý là thấy hổ thẹn với người khác. Tàm quý nói một cách đơn giản là cảm thấy xấu hổhổ thẹn với những lỗi lầm của mình đã gây ra. Đây là hai trạng thái tâm lý (tâm sở) thiện lành, rất cần thiết đối với tất cả mọi người, và vô cùng quan trọng đối với người tu. Bởi khi một người không tự biết xấu hổ với những hành động lỗi lầm mà mình đã gây ra thì người đó không có cơ hội để hướng thượng, để phát triển tâm linh, không việc xấu nào lại không làm. Đức Thế Tôn nhận định đây là “Hai pháp tinh diệu thủ hộ thế gianNếu không có hai pháp này, thì thế gian sẽ không phân biệt có cha, có mẹ, có anh, có em, vợ contri thức, tôn trưởng, lớn nhỏ; sẽ cùng với lục súc heo, gà, chó, ngựa, dê… cùng một loại”4.

Tỳ-kheo nào không tàm, không quý thì làm tổn hại ái và kỉnh. Không có ái và kỉnh thì làm tổn hại tín. Không có tín thì làm tổn hại chánh tư duy. Không có chánh tư duy thì tổn hại chánh niệmchánh trí. Không chánh niệmchánh trí thì bị tổn hại việc thủ hộ các căn, thủ hộ giới, không hối hậnhân hoan, hỷ, chỉ, lạc, định, tri kiến như thậtyếm ly, vô dục, giải thoátNếu không giải thoát thì làm tổn hại Niết-bàn5.

Tàm và quý có sức mạnh rất lớn, có khả năng chặn đứng nghiệp lực đưa tới quả báo thọ khổ đời sau. Kinh ghi: “Tàm lực là hổ thẹnxấu hổ đối với pháp ác, bất thiện, các phiền não đã khởi, sẽ phải chịu các quả báo khổ bức bách của sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não ở trong đời vị lai. Quý lực là lấy làm thẹn các điều đáng thẹn, tự thẹn về các pháp ác, bất thiện, các số phiền não đã khởi, sẽ phải chịu các quả báo khổ bức bách của sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não ở trong đời vị lai”6.

4.Thành trì thứ tư là tinh tấn, tức siêng năng. Siêng năng tinh tấn trong nhà Phật có bốn phương diện, gọi là Tứ chánh cần hay Tứ ý đoạn:

- Một là siêng năng tinh tấn để đoạn trừ những điều xấu ác đã sanh, không cho nó phát triển.

- Hai là siêng năng tinh tấn đoạn trừ điều ác chưa sanh, tức những ý niệm ác đang còn ẩn nấp bên trong tiềm thức, dưới dạng chủng tử, khiến cho nó không được phát triển.

- Ba là nỗ lực tinh tấn để phát huy, khơi dậy những điều thiện, những đức tính tốt, những hạt giống tốt chưa được biểu hiện, làm cho nó biểu hiện.

- Bốn là nỗ lực tinh tấn làm cho những điều thiện, những đức tính tốt, những hạt giống tốt đã phát triển càng thêm phát triển, mỗi ngày một thêm lớn mạnh. Điều thiện ở đây được hiểu là các pháp đưa đến giải thoát khổ đau, như mười điều thiện, như vô thamvô sân, vô si…

Trong kinh Tương ưng VĐức Phật dạy: “Như sông Hằng chảy xuôi về phương Đông, Tứ chánh cần được tu tập sung mãn xuôi về Niết-bàn”. Ở một đoạn khác, Đức Phật dạy: “Để thắng tri, đoạn diệt, đoạn tận năm thượng phần kiết sửTứ chánh cần cần phải được tu tập”. Ngài kết luận: “Như làm việc cần phải có sức lực, như đi phải có hai chân, hành giả trên đường về giải thoát luôn luôn tu tập Tứ chánh cần để hoàn bị thiện pháp”.

Rõ ràngĐức Phật đã khẳng định tinh tấn là yếu tố rất quan trọng trên bước đường tu tập và hành đạo. Người xuất gia như những chiến sĩ ra trận, cầm gươm báu trí tuệ xông pha chiến trường khổ đau sanh tử để giết giặc phiền nãosi mêtham lamsân hậnNếu không có đủ nghị lực, không nỗ lực tinh tấn, sẽ bị giặc phiền não đánh gục. Sự siêng năng tu tập của những người con Phật là để phá phiền não ác, nhiếp phục bốn loài ma, để vượt ra ba cõi. Đó gọi là Chánh tinh tấn. Còn mọi nỗ lực khác, vì một yếu tố gì đó, chẳng hạn như siêng năng tụng kinh để cầu phước, để người ta cúng dường, thì đó không phải là sự tinh tấn chân chính. Cho nên, tinh tấn là một năng lực tổng hợp của sự hiểu biết, ước muốn giải thoát và chánh niệm tỉnh giác. Nếu rời ba tính chất này thì sự mọi sự siêng năng không phải là Chánh tinh tấn.

Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới tập trung bốn binh chủng: tượng quân, mã quân, xa quân, bộ quân, để bên trong được an ổn và chế ngự địch quân ở bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử thường thực hành hạnh tinh tấn, đoạn trừ ác bất thiện, tu các thiện pháp, luôn gắng sức bền chí, chuyên nhất kiên cố, làm các điều thiện, không bỏ phương tiện, đoạn trừ ác bất thiện, tu các thiện pháp, hằng tự sách tấn, chuyên nhấtkiên cố, làm các gốc rễ thiện, không bỏ phương tiện. Đó là Thánh đệ tử có quân lực tinh tấn để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.

5. Thành trì thứ năm là quảng học đa văn, tức học rộng nghe nhiều. Học rộng, nghe nhiều là học và nghe những gì để có thể thấy được đặc tính vô thườngvô ngã của các pháp. Học rộng nghe nhiều bằng cách đọc tụngnghiên cứu, nghe giảng về kinh, luật, luận.

Đức Phật giảng dạy suốt 45 năm, kinh điển để lại như biển lớn có rất nhiều trân bảovô lượng đồ quý báu lạ mắt được chứa đầy trong đó. Tên của các trân bảo đó là vàng, bạc, thủy tinhlưu lyma nitrân châu, bích ngọc, san hôhổ pháchmã não, đồi mồi, đá đỏ, tuyền châu…

Chánh pháp luật của Như Lai cũng giống như vậy, có rất nhiều trân bảovô lượng đồ quý báulạ mắt được chứa đầy trong đó. Những pháp trân bảo đó là Bốn niệm xứBốn chánh cầnBốn như ý túc, Năm căn, Năm lựcBảy giác chiThánh đạo tám chi7…

Nếu không học rộng nghe nhiều, tức là không đọc tụng kinh điển, làm sao có thể thừa tự được kho tàng pháp bảo ấy? Cho nên, người Phật tử không những phải học rộng, nghe nhiều mà còn phải ghi nhớ không quên những pháp đã học, đã nghe.

Một người đa văn, là đệ tử của bậc Thánh, thì không để tâm dẫn đi, không để tâm nhiễm trước, không để tâm tự tại, người ấy không vâng theo sự tự tại của tâm, mà tâm tùy theo tự tại của người ấy. Một người đa văn là khi nghe, khi đọc bốn câu kệ mà biết nghĩa, biết pháp, thực hành pháp tùy phápthuận theo phạm hạnh8.

Quảng học đa văn không có nghĩa là lao đầu vào học hết trường này đến trường khác, không phải đọc hết sách này đến sách khác, chất chứa nhiều loại tri thức, từ đông tây kim cổ, đến nội ngoại điển đều thông, mà quảng học đa văn ở đây là Văn, Tư, Tu những gì có thể dẫn đến đoạn diệt phiền nãotiêu diệt các pháp ác bất thiện và làm phát khởi hạt giống trí tuệ nơi tâm của mình.

Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới, chuẩn bị binh khí, cung tên, mâu kích, để bên trong được an ổn, và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử học rộng nghe nhiều, ghi nhớ không quên, tích lũy sự nghe rộng. Các pháp nào là toàn thiện ở khoảng đầu, toàn thiệnở khoảng giữa, toàn thiện ở khoảng cuối, có nghĩa có văn, thanh tịnh trọn đủ, phạm hạnhhiển hiệnhọc rộng nghe nhiều các pháp như vậy; học đến cả ngàn lần, chú ý chuyên tâmquán sát, thấy rõ hiểu sâu. Đó là Thánh đệ tử có binh khí đa văn, để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.

6. Thành trì thứ sáu là chánh niệm. Niệm, Phạn ngữ smrti, là trạng thái chú tâm, sự hiện hữucủa tâm trên đối tượng, là phát khởi và duy trì ý thức về một đối tượng. Niệm đơn giản là để tâm tới đối tượng và chỉ để tâm tới thôi, không cần phải suy tư, tưởng tượng và phân tích gì hết. Chánh niệm, samyak smrti, là sự ý thức và tập trung chân chínhrõ ràngan tĩnh, sự ý thức về đối tượng bên trong và bên ngoài (của thân, thọ, tâm, pháp) một cách không chấptrước và vướng mắc, tức là sự ý thức đơn thuần để tiếp xúc thực tại như thật của nó (hiện lượng) mà không liên hệ đến các hoạt động lý luậnđánh giá và phân biệt.

Tu tập có nghĩa là làm chủ thân tâm. Để làm chủ thân tâm phải thực tập và duy trì chánh niệm. “Tỳ-kheo nào không chánh niệm, không tỉnh giác thì chánh niệm bị tổn hạiNếu khôngchánh niệmtỉnh giác thì làm tổn hại việc thủ hộ các căn, thủ hộ giới, không hối hậnhân hoan, hỷ, chỉ, lạc, định, tri kiến như thậtyếm ly, vô dục, giải thoátNếu không giải thoát thì làm tổn hại Niết-bàn”. Ngược lại, “Nếu Tỳ-kheo nào không thường mất chánh niệm tỉnh giácthì thường xuyên có chánh niệm tỉnh giác. Nếu có chánh niệm tỉnh giác thì thường thủ hộ các căn, giữ giới, không hối hậnhân hoan, hỷ, chỉ, lạc, định, tri kiến như thậtyếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu đã giải thoát liền chứng đắc Niết-bàn”9.

Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới lập vị đại tướng trấn thủ sáng suốt, thao lược, cơ trí, tháo vát, dũng mãnh, cương nghị, giỏi mưu chước, người hiền thì cho vào, kẻ bất lương thì ngăn cấm, để bên trong được an ổn và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tửluôn sống chánh niệmthành tựu chánh niệm, những gì đã từng thực tập từ lâu, đã từng nghe từ lâu, nhớ luôn không quên. Đó là Thánh đệ tử có đại tướng trấn thủ niệm để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.

7. Thành trì thứ bảy là trí tuệTu học mà không có trí tuệ thì dễ lầm đường lạc lối. Cho nên, khác với người đời, vốn lấy tài sảnđịa vịquyền lực, danh vọng… làm sự nghiệp, người xuất gia theo đạo Phật lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy tuệ thị nghiệp). Trí tuệ ở đây không phải là thứ kiến thức thu thập được từ học đường, từ sách vở và gói vào trong mảnh văn bằng, học vị cử nhântiến sĩ,… Những thứ ấy chỉ là tri thức, không dính dáng gì đến trí tuệ của nhà Phật.

Trí tuệ ở đây là sự hiểu biết tất cả các pháp, thấy rõ được bản chất của các pháp. Nói cách khác là trí tuệ thấy được bản chất khổ, vô thườngduyên sinh và vô ngã của các pháp. Trí tuệ này là động lực đưa chúng ta tìm cầu cái không sinh, không già, không bệnh, không chết, không sầu, không ô nhiễmtrí tuệ giải thoát.

Trí tuệ giải thoát vốn có trong tâm của mỗi chúng sanh. Cái vô minh nó nằm trong tâm của chúng sanh, mà cái minh (trí tuệ) nó cũng nằm trong tâm của mỗi chúng sanh. Do đó, để chặn đứng dòng chảy của vô minh thì phải làm phát khởi, làm khơi dậy cái minh, cái vô sitrong tâm của chúng ta.

Sự tu học trong đạo Phật là làm thế nào để phát triển được hạt giống trí tuệ, cái minh trong mỗi chúng sanh, trong mỗi con ngườiGiáo dục của Phật giáo là con đường đưa đến vô minhdiệt, minh sanh. Minh này chính là tự tính, là Phật tính nơi mỗi chúng sanh. Chỉ khi nào làm phát khởi được cái minh này, làm cho cái minh này hiển hiện thì lúc đó mới thành tựu được sự nghiệp tu học. Đó là mục đích của sự tu học.

Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới xây đắp tường cao cho thật kiên cố, trét bùn tô đất, để bên trong được an ổn, và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử tu hành trí tuệquán pháp hưng suy. Bằng Thánh tuệ phân biệt tỏ tường và thấu suốt mà chân chánh diệt tận khổ. Đó là Thánh đệ tử có bức tường trí tuệ, để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.

Tóm lại, bảy pháp tín kiên cố, tàm, quý, tinh tấnhọc rộng nghe nhiều, chánh niệmtrí tuệ là bảy lớp thành trì vững chắc bảo vệ lâu đài điện các tâm linh trước mọi thế lực của ma binh mà mỗi người con Phật phải luôn xây đắpgiữ gìn. Cuộc sống là sống với sống cùng chứ không phải sống một mình. Không một cá thể nào tách rời đoàn thể mà có thể sống được. Đoàn thể đó có thể là một gia đình, một tổ chức xã hội, một đoàn thể tu học, có thể là rừng cây, bờ suối… Tất cả những thứ ấy đều là điều kiện nhân duyên cho sự sống tiếp tục phát triển.

Trong trùng trùng duyên khởi các điều kiện nhân duyên đó, có những thứ đã hấp dẫn, cuốn hút chúng ta vào con đường danh lợi, vào con đường tội lỗi; cũng có những thế lực vô minh, ma binh đang rập rình xâm nhập vào “nhà Như Lai”, lung lay lý tưởng tu họcphá hủy giới thân tuệ mạng… Vì vậychúng ta phải cẩn trọngđề phòngCẩn trọng và đề phòng bằng bảy thiện pháp này chính là thành trì vững chắc nhất khiến “không bị Ma vương lung lạc, cũng không theo pháp ác bất thiện, không bị nhiễm bởi nhiễm ô, không còn thọ sanh trở lại”.

Các thế lực xấu ác không ngừng bức não người tu. Chúng có thể mắng chửi, đập phá, bôi nhọ… Nếu mắng chửi, đánh đập, bôi nhọ mà không chi phối được người tu thì chúng sẽ phụng kính, cúng dường, lễ sự để lung lạc. Đó là bản chất xấu ác của ma binh, rất hung bạo và xảo quyệt, luôn tìm mọi cách để mưu hại, hoặc mua chuộc bằng tiền tài, danh lợiđịa vị, hoặc khủng bố bằng bạo lực… nhằm mục đích lung lạc chí hướng tu tập của những người tu. Nếu không đề cao cảnh giác, không có bản lĩnh phi thường, không xây dựng thành trì vững chắc, người tu sẽ dễ dàng bị rơi vào cạm bẫy của các thế lực xấu ác.

_______________

Trung A-hàm, kinh Thành dụ. 2 ĐTK/ĐCTT, T09, n°.0278, p.0432c19. 3 ĐTK/ĐCTT, T25, n°.1509, p.0063a01. 4 Tăng nhất A-hàm, phẩm Tàm quý. 5 Trung A-hàm, kinh Tàm quýTạp A-hàmTương ưng Lực.

Trung A-hàm, kinh A-tu-la.

Trung A-hàm, kinhTâm.

Trung A-hàm, kinh Niệm.

 
Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 98)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(View: 122)
Chúng ta ở đây; chúng ta tồn tại và chúng ta có quyền hiện hữu. Ngay cả những sinh vật không có tri giác như hoa cũng có quyền tồn tại.
(View: 134)
Đức Phật xuất hiện và hành đạo nơi xứ Ấn cách nay hơn 26 thế kỷ với hiện thân con người, bậc Giác ngộ trong thế gian.
(View: 148)
Phá kiến là một thuật ngữ trong Phật giáo dùng để chỉ cho việc có quan điểm, giải thích, hướng dẫn sai lạc ý nghĩa chân chính của Phật pháp.
(View: 170)
“Dòng sông ơi! Vẫn thơ mộng như ngày xưa! Tình người ơi! Vẫn đẹp cho đến bao giờ…?”
(View: 197)
Nói sơ tâm, là nói về tâm của người mới học, tâm đơn sơ, tâm như hài nhi trẻ nhỏ, tâm rất mực hồn nhiên, chưa có chút gì là chữ nghĩa dày đặc, không chút gì là kiến thức uyên bác.
(View: 201)
Cái đẹp luôn là đề tài thơ mộng cho con người ta bay bổng, mộng mơ và tương tư không dứt, nó là một phần ý vị của cuộc sống.
(View: 233)
Người tu học Phật đều biết rằng, Bát Chánh đạolà nền tảng quan trọng của toàn bộ giáo pháp Thế Tôn.
(View: 253)
Chúng ta không thể nào trường sanh bất tử, trẻ đẹp, và mạnh khỏe mãi mãi được trên đời.
(View: 384)
Tu hành là gì? Có phải nhất định cần thoát ly cuộc sống, chạy vào trong chùa niệm kinh lạy Phật...
(View: 446)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(View: 312)
Để đoạn tận tất cả tà kiến thì phải trau dồi chánh kiến. Chánh kiến ở đây là cái gì?
(View: 327)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(View: 278)
Đúng thế, đời là vô thường, huyễn mộng ai ai cũng biết. Nhưng chúng ta không thể nào ngồi im mà thụ động tại chỗ.
(View: 283)
Đức Phật đã dạy các nhà sư nên đi lang thang thế nào? Các bản tiếng Anh thường dùng chữ “wander” để nói về hành vi lang thang.
(View: 312)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(View: 332)
Pháp thoại này Thế Tôn dạy Tôn giả La-vân (La-hầu-la) quán chiếu về thân nghiệp giống như đang soi gương thấy rõ mặt mình dơ hay sạch.
(View: 318)
Cứ mỗi độ Vu Lan lại về với chúng ta, chính lúc đó là mùa Báo Hiếu, không biết bao nhiêu người con, từ khắp bốn phương nhớ tưởng đến công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ…!
(View: 325)
Thỉnh thoảng chúng ta nghe rằng bạn này tu theo Thiền Chỉ, và rồi nghe rằng bạn kia tu theo Thiền Quán.
(View: 336)
Bài pháp thoại này được nói tại một ngày tu Chánh niệm ở Tu viện Tisarana, vào tháng Ba năm 2008.
(View: 331)
Bài viết này được chuyển thể từ một bài báo xuất bản đầu tiên trên Tina Lear's Medium.
(View: 323)
Hình như bất cứ lãnh vực nào, bước vào chuyên sâu, đều luôn có những chướng ngại, hoặc chướng duyên;nhất là hành giả trên con đường tâm linh giải thoát.
(View: 318)
Về câu hỏi, thế nào là thời mạt Pháp? Tôi được nghe câu trả lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi nói chuyện tại chùa Viên Giác
(View: 323)
Phàm phu thì sống trong thức phân biệt, nên thấy có sanh tử và không ra khỏi. Trái lại, bậc thánh thì sống trong trí và do đó thoát khỏi sanh tử:
(View: 371)
Phàm là người xuất gia ở chốn Tòng Lâm, tự viện, phải sống đời phạm hạnh, nghiêm trì giới luật đã thọ, giữ gìn oai nghi tế hạnhtrang nghiêm tự thân, kính trên nhường dưới, từ ái với mọi người.
(View: 343)
Bất cứ trong một tổ chức nào, từ chính trị đến xã hội, từ Tôn giáo đến đoàn thể…đều cần có một lý thuyết nền tảng vững chắc để làm cơ sở triển khai mọi sinh hoạt.
(View: 541)
Mỗi ngày trong cơ thể ta đều có những tế bào cũ chết đi và những tế bào mới sinh ra nhưng có bao giờ chúng làm đám tang hay tổ chức sinh nhật cho chúng đâu
(View: 410)
Chúng ta thường nghe nói rằng Thiền Tổ Sư là dạy pháp vô niệm, vô tâm.
(View: 409)
Như lý tác ý là khởi nghĩ, hướng tâm về mọi sự vật và hiện tượng đúng như lời dạy của Đức Phật.
(View: 429)
Thân là thân thể của con người. Niệm là ghi nhận, quan sát. Xứ là lĩnh vực, là đề mục để hành giả quan sát tu tập.
(View: 417)
“Chiếc áo không làm nên nhà sư”, nghĩa bóng của nó như một lời nhắc nhở mọi người, đừng vội đánh giá người khác qua hình thức bên ngoài.
(View: 460)
Có phải bây giờ đã tới thời mạt pháp? Hay là sắp tới thời mạt pháp?
(View: 484)
Tánh Không được đồng hóa với như mộng. Đây là điều hệ thống Kinh Đại Bát Nhã thường nói.
(View: 559)
Toàn thể thế giới chúng ta, bên ngoài là thế gian, bên trong là tâm. Tất cả chúng là một biển vô tận của các pháp hữu vi đang vận hành.
(View: 465)
Việc tu tậpthiền viện nhấn mạnh vào việc hoàn thành mọi công tác tốt đẹp. Là tu sĩ, chúng tôi đặt nặng giá trị của việc chánh niệm về những điều bình thường
(View: 484)
Danh vọng nương nơi cái tôi mà tồn tại. Không có cái tôi, danh vọng không hiện hữu.
(View: 584)
Đã tử lâu lắm rồi, người Phật tử đã nghe nói về thời mạt pháp.
(View: 523)
Gần đây chúng ta thấy xuất hiện trên mạng xã hội nhiều bài viết kêu gọi người Phật tử phải cảnh giác với việc “trộm tăng tướng” hay “tặc trụ”.
(View: 524)
Trong nhiều bài pháp tôi đã viết, thì thường đề cập đến vấn đề làm phước, tích phước, tích đức, hay tu thiện... V
(View: 554)
Bố thícúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi này tốt đẹp hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên đường giải thoát.
(View: 516)
Thuyết âm mưu không phải là vấn đề mới, nó vốn xảy ra từ xa xưa, bên Đông hay bên Tây đều có cả.
(View: 574)
Sự xuất hiện của hành giả Thích Minh Tuệ đã tạo ra một biến động chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam.
(View: 601)
Bệnh đau là chuyện tất yếu của con người. Trừ những người có phước đức về sức khỏe sâu dày, còn lại hầu hết đều trải qua bệnh tật.
(View: 617)
Thời thơ ấu, chúng ta ưa thích đọc truyện Cô Ba Cháo Gà Địa Ngục Du Ký, rồi ưa nghe kể chuyện vong nhập, chuyện trừ tà…
(View: 1464)
Con đi Tu là để cầu giải thoát, hàng ngày con chỉ xin ăn một bữa, con không nhận tiền của ai.
(View: 622)
Karma là một từ tiếng Phạn có nghĩa là “hành động”. Một cách đơn giản để hiểu nghiệp là nhìn nó như những khoảnh khắc nhân quả.
(View: 723)
Từ nghệ thuật, có những nhân vật bước ra đời sống. Từ đời sống, cũng có vài con người đi vào nghệ thuật. Nhưng trở thành hình tượng trung tâm
(View: 592)
Làm sao có được hòa bình và hạnh phúc trong thế giới đầy biến độngnghi kỵ như hiện nay?
(View: 682)
Cho tới hôm nay, “hạnh đầu đà” không còn là cụm từ xa lạ. Nhắc đến nó ta sẽ nghĩ ngay đến sư Minh Tuệ, mặc dù ông không phải là người thực hành hạnh này đầu tiên và duy nhất.
(View: 684)
Nhân duyên đưa đến lời dạy này của Đức Phật bắt nguồn từ sự cầu thỉnh chân thành của trưởng giả tên là Kiên Cố(Kevadha)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant