Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Tỉnh Tỉnh, Lặng Lặng

Wednesday, August 14, 202418:19(View: 704)
Tỉnh Tỉnh, Lặng Lặng
Tỉnh Tỉnh, Lặng Lặng

Nguyên Giác


tanh khong

Thỉnh thoảng chúng ta nghe rằng bạn này tu theo Thiền Chỉ, và rồi nghe rằng bạn kia tu theo Thiền Quán. Và rồi có bạn nói như dường hai pháp này dị biệt nhau, khi bạn này nói rằng Thiền Chỉ là cách vào Tứ Thiền, trong khi Thiền Quán là theo Tứ Niệm Xứ. Bất chợt, có bạn chợt nhớ lời khuyên quân bình từ Trần Thánh Tông rằng “Dụng của chân tâm, tỉnh tỉnh lặng lặng” và từ Vĩnh Gia Huyền Giác rằng “Tỉnh tỉnh lặng lặng phải…” Bài này sẽ ghi lời Đức Phật dạy rằng quân bình là ưu thắng nhất.

Trong Kinh AN 10.54, Đức Phật dạy rằng có nhiều căn cơ khác nhau, sẽ có những vị đạt được tịnh chỉ nội tâm trước, thì nên tăng thượng tuệ pháp quán nếu thấy còn thiếu sót, và ngược lại. Hai cửa này cần bổ túc cho nhau. Bản dịch Thầy Minh Châu nói về ý này trong Kinh AN 10.54 như sau:

Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát, biết như sau: “Ta có được nội tâm tịnh chỉ, nhưng ta không được tăng thượng tuệ pháp quán”, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sau khi an trú nội tâm tịnh chỉcần phải nỗ lực để đạt cho được tăng thượng tuệ pháp quán ấy; sau một thời gianđạt được nội tâm tịnh chỉ và được tăng thượng tuệ pháp quán.

Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát, biết như sau: “Ta có được tăng thượng tuệ pháp quán, nhưng không có được nội tâm tịnh chỉ”, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sau khi an trú tăng thượng tuệ pháp quán, cần phải nỗ lực để đạt cho được nội tâm tịnh chỉ. Vị ấy sau một thời gianđạt được tăng thượng tuệ pháp quán và chứng được nội tâm tịnh chỉ.” (1)

Trong Kinh Pháp Cútinh thần định huệ quân bình được ghi qua bài kệ 372 như sau:

372. "Không trí tuệ, không thiền,

Không thiền, không trí tuệ.

Người có thiền có tuệ,

Nhất định gần Niết-Bàn." (Bản dịch Thầy Minh Châu)

Các danh từ Hán Việt thường khi có nghĩa mơ hồ, dễ gây nhầm lẫn đối với người không quen đọc. Bởi vì chữ “thiền” trong bài kệ trên có thể làm độc giả liên tưởng tới chữ thiền trong các chữ “Thiền Tông” hay Thiền sư,” trong khi các bản tiếng Anh nói rằng chữ đó là “định” trong nghĩa tịnh chỉ (Ngài Sujato dịch là “absorption” và Ngài Ānandajoti dịch là “concentration.”)

Ngài Sujato dịch là: “No absorption for one without wisdom, no wisdom for one without absorption. But one with absorption and wisdom— they have truly drawn near to extinguishment.” (Dịch: Không thể có định đối với người nào không có tuệ, không thể có tuệ đối với người nào không có định. Nhưng vị nào có cả định và tuệ -- họ mới thực sự tới gầngiải thoát.)

Bản dịch của Ngài Ānandajoti nhấn mạnh hơn, rằng không phải gần giải thoát, mà lúc đó là hiển lộ Niết Ban rồi: “There is no concentration for one without wisdom, there is no wisdom for one without concentration, the one who has both concentration and wisdom is indeed in the presence of Nibbāna.” (Không có định đối với người nào không có tuệ, không có tuệ đối với người nào không có định. Người nào có cả định và tuệ thì thực sự đã trong hiển lộ của Niết Bàn.)

Trong nhiều kinh, Đức Phật dạy rằng phải dựa vào ngũ căn (tín căntấn cănniệm cănđịnh căntuệ căn) để giải thoát. Nghĩa là, phải tin chắc thật vào Như Lai và tin Bát Chánh Đạo là con đường giải thoátTấn căn là giữ giới và hành trì nghiêm túc, "sống tinh cầntinh tấn đoạn trừ các pháp bất thiện, làm cho đầy đủ các thiện pháp, với nỗ lực kiên trìtinh tấn, không có từ bỏ gánh nặng các thiện pháp"... Niệm căn là chánh niệm, tức là “mindfulness” và định cănlà tịnh chỉ (Thanissaro dịch là "concentration" và Sujato dịch là "immersion."). Theo nghĩa này, Thiền Quán là Niệm căn, và Thiền Chỉ là Định căncần phải bước tới Tuệ căn để giải thoát.

Trong Kinh SN 48.9, Đức Phật dạy về cách hướng niệm và định để tới tuệ giải thoát, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là niệm căn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử chánh niệmthành tựu niệm tuệ, tối thắng (satinepakkena), ức niệmtùy niệm các việc làm từ lâu, các lời nói từ lâu. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là niệm căn.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là định căn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử sau khi từ bỏ pháp sở duyên, được định, được nhứt tâm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là định căn.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tuệ căn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có trí tuệthành tựu trí tuệ về sự sanh diệt các pháp, trí tuệ các bậc Thánh thể nhập (các pháp), đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tuệ căn.” (2)

Thực ra, các chữ  gốc Hán Việt đều khó hiểu. Trong khi, nếu chúng ta thay chữ định bằng “lặng lặng” và quán bằng “tỉnh tỉnh” thì dễ hiểu vô cùng. Nhưng khi gặp chữ khó hiểu, đối chiếu sang các kinh tiếng Anh thì sẽ không nhầm lần. Bất kể là tu pháp nào, dù là vào bằng cửa tỉnh tỉnh, hay vào bằng cửa lặng lặng, hay là cửa quân bìnhly dục  là điều cần thiết. Do vậy, Phật tử tại gia đang có gia đình, cũng phải sống như người độc thân, mới có thể vào được sơ Thiền.

Trong Kinh AN 4.162, Đức Phật dạy rằng muốn năm căn mạnh, thì phải ly dục, theo bản dịch Thầy Minh Châu:

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người bản tánh tham dục không có cường thịnh, thường không có cảm thọ khổ ưu do tham dục sanh; bản tánh sân không có cường thịnh, thường không có cảm thọ khổ ưu do sân sanh; bản tánh si không có cường thịnh, thường không có cảm thọ khổ ưu do si sanh. Với người ấy, năm căn này hiện ra rất dồi dào, tức là tín căntấn cănniệm cănđịnh căntuệ căn. Do năm căn này dồi dào, người ấy đạt được Vô gián định một cách nhanh chóng để đoạn tận các lậu hoặc. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành lạc, thắng trí nhanh.” (3)

Khi tu tập định căn, tức là Thiền Chỉ. Khi tu niệm căn, tức là Thiền Quán. Khi chỉ và quánquân bình, sẽ dễ dàng đắc tuệ giải thoát, tức là kinh nghiệm thực chứng được các pháp ấnvô thườngvô ngã.

Đối với người đắc sơ Thiền, từ đây hướng tâm về các pháp quán như lời Đức Phật dạy, thì sẽ giải thoát. Trên mạng Thư Viện Hoa Sen đã có nhiều bài hướng dẫn về cách vào sơ Thiền. Nơi đây xin ghi lời Đức Phật dạy trong Kinh AN 6.73 về điều kiện để đạt được và an trú sơ Thiền, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:

Đoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, có thể đạt được và an trú sơ Thiền. Thế nào là sáu? Dục tham, sân, hôn trầm thụy miêntrạo hối, nghi, không như thật khéo thấy với chánh trí tuệ các nguy hại trong các dục. Đoạn tận sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể đạt được và an trú sơ Thiền.” (4)

Đức Phật dạy rằng, từ sơ Thiền, tùy quán theo Kinh AN 9.36 thì sẽ giải thoát, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:

Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng: “Y chỉ vào sơ Thiền, các lậu hoặc được đoạn tận”, như vậy được nói đến. Do duyên gì, được nói đến như vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly dục… chứng và trú sơ Thiền. Vị ấy, ở đây đối với cái gì thuộc về sắc, thuộc về thọ, thuộc về tưởng, thuộc về hành, thuộc về thức, các pháp ấy, vị ấy tùy quán là vô thường, là khổ, là bệnh, là mụt nhọt, là mũi tên, là va chạm, là tật bệnh, là khách lạ, là biến hoại, là trống không, là vô ngã. Vị ấy tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, sau khi tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, vị ấy hướng dẫn đến giới bất tử: “Đây là tịch tịnh, đây là thù thắng, tức là sự chỉ tức tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự diệt tận khát áily thamđoạn diệt, Niết-bàn”. Vị ấy trú ở đây, đạt đến sự diệt tận các lậu hoặcnếu không diệt tận các lậu hoặc, với pháp áiấy, với pháp hỷ ấy, do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, là vị hóa sanh, tại đấy chứng được Niết-bàn, không còn trở lui thế giới này nữa.” (5)

Tới đây, câu hỏi thường gặp rằng thế nào là “chánh niệm, tỉnh giác” hiểu theo lời Đức Phậtdạy? Trong Kinh SN 47.2, Đức Phật dạy rằng lìa tham và ưu để quán sát chính là chánh niệm, và thường trực giữ chánh niệm trong các tư thế gọi là tỉnh giác. Kin h này theo bản dịch của Thầy Minh Châu viết:

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo chánh niệm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giácchánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời … quán thọ trên các thọ … quán tâm trên tâm … quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giácchánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo chánh niệm.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo tỉnh giác? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi đi tới, khi đi lui, đều tỉnh giác; khi nhìn tới, khi nhìn lui, đều tỉnh giác; khi co cánh tay, duỗi cánh tay, đều tỉnh giác; khi đắp y Tăng-già-lê, khi mang y bát, đều tỉnh giác; khi ăn uống, nhai nếm, đều tỉnh giác; khi đi tiểu tiện, đại tiện, đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng, đều tỉnh giác. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo tỉnh giác.” (6)

Trong khi quán sát như lời dạy trong Tứ Niệm Xứ, sẽ thấy bất kỳ cửa nào cũng có thể giải thoát, dù là quán thân, hay quán thọ, hay quán tâm, hay quán pháp. Không nhất thiết là phải tuần tự quán sát trọn vẹn cả bốn niệm xứ. Trong Kinh SN 47.37, Đức Phật dạy như sau, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giácchánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Do vị ấy trú, quán thân trên thân, ước muốn đối với thân được đoạn diệt. Do ước muốn được đoạn diệt nên chứng ngộ được bất tử.

Vị ấy trú, quán thọ trên các cảm thọ … Do vị ấy trú, quán thọ trên các cảm thọ, ước muốn đối với thọ được đoạn diệt. Do ước muốn được đoạn diệt nên chứng ngộ được bất tử.

Vị ấy trú, quán tâm trên tâm … Do vị ấy trú, quán tâm trên tâm, ước muốn đối với tâm được đoạn diệt. Do ước muốn được đoạn diệt nên chứng ngộ được bất tử.

Vị ấy trú, quán pháp trên các pháp … Do vị ấy trú, quán pháp trên các pháp, ước muốn đối với các pháp được đoạn diệt. Do ước muốn được đoạn diệt nên chứng ngộ được bất tử.” (7)

Kinh vừa dẫn nói rằng quán thân, thọ, tâm, pháp phải đoạn diệt được “ước muốn” thì mới giải thoát. Tại sao phải đoạn diệt “ước muốn” và điều đó có ý nghĩa gì? Đơn giản, khi còn “ước muốn” là còn thấy có cái “tôi” và cần “cái của tôi” – nghĩa là, khi “ước muốn được đoạn diệt” nghĩa là hoàn toàn không còn chút gì cái “tôi” hay “cái của tôi” và đó là giải thoát. Đó là Thiền Quán theo lời Phật dạy. Nơi đây,c húng ta không bàn vế các pháp Thiền Chỉ và Thiền Quántrong các luận thư đời sau.

Có một Kinh, cho thấy có tương thông giữa tỉnh tỉnh và lặng lặng. Từ quán sát thân tâm vô thường, dẫn tới ly tham, khi “hỷ và tham đoạn tận” thì là giải thoát. Nói đoạn tận “hỷ và tham” bởi vì hỷ là vui với thân tâm mình trong cõi này, và tham là muốn có những gì với thân tâmmình trong cõi này, tức là hỷ và tham sẽ làm chúng at lún sâu hơn vao sinh tử luân hồi.

Kinh SN 22.51 ghi lời dạy, theo bản dịch Thầy Minh Châu:

Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thấy sắc vô thường là vô thường; đấy là chánh tri kiến của vị ấy. Thấy chơn chánh như vậy, vị ấy yếm ly. Do hỷ đoạn tận, tham được đoạn tận. Do tham đoạn tận, hỷ được đoạn tận. Do hỷ, tham đoạn tận, tâm được giải thoát, vị ấy được gọi là vị đã khéo giải thoát. Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thấy thọ vô thường là vô thường … tưởng vô thường … các hành vô thường …

Này các Tỷ-kheo, khi vị Tỷ-kheo thấy thức vô thường là vô thường; đấy là chánh tri kiến của vị ấy. Thấy chơn chánh như vậy, vị ấy yếm ly. Do hỷ đoạn tận, tham được đoạn tận. Do tham đoạn tận, nên hỷ được đoạn tận. Do hỷ, tham đoạn tận, tâm được giải thoát, vị ấy được gọi là vị đã được khéo giải thoát.” (8)

Trong Kinh Ud 3.5, Đức Phật dạy ngài Mahāmoggallāna rằng với chánh niệm về thân được thiết lập, phòng hộ sáu căn, luôn luôn giữ tâm trong định thì sẽ giải thoát. Bản Anh dịch của ngài Sujato ghi lời dạy của Đức Phật về thường trực trong tương thông cả chỉ (tĩnh chỉ tâm) và quán (niệm thân) như sau:

With mindfulness of the body established, restrained in the six fields of contact, a mendicant always immersed in samādhi would know quenching in themselves.” (9)

Nơi đây, xin dịch như sau: “Với chánh niệm về thân được thiết lập, phòng hộ sáu lĩnh vực tiếp xúc của sáu căn, một vị tu sĩ luôn luôn giữ tâm trong định sẽ biết tịch lặng giải thoát trong chính vị này.”

Có một cách đơn giản nhưng cực kỳ khó. Những người tâm hồn cực kỳ ngây thơ sẽ dễ vào. Tới đây, chúng ta sẽ nói về Đốn giáo. Tức là giải thoát tức khắc.

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn của Thiền Tông, bản dịch của Thầy Thích Duy Lực, nơi Phẩm Tựa Thứ Nhất có ghi như sau:

“…Huệ Năng liền ra ngồi trên tảng đá, Huệ Minh đảnh lễ nói rằng: Mong hành giả vì tôi thuyết PhápHuệ Năng nói: Ông đã vì Pháp mà đến đây, thì nên ngưng nghỉ các duyên, chớ sanh một niệm, ta sẽ vì ông mà thuyết.

Một hồi sau Huệ Năng nói: Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, đang khi ấy cái nào là bổn lai diện mục của Thượng Tọa Minh? Huệ Minh ngay đó đại ngộ, lại hỏi rằng: Ngoài lời mật ý kể trên, còn có ý nào bí mật chăng? Huệ Năng nói: Đã nói với ông thì chẳng phải mật rồi, nếu ông phản chiếu thì mật tại bên ông.” (10)

Lời của Lục Tổ Huệ Năng cũng là nói một phiên bản khác từ lời Đức Phật dạy. Không nghĩ thiện, không nghĩ ác. Có nghĩa là trong khi thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm thọ từ xúc chạm, suy nghĩ tư lường… thì tâm không chệch theo bất kỳ những gì trong quá khứ hay mơ mộngtương lai, cũng không dính tới bất kỳ ưa thích hay ghét bỏ nào, nghĩa là để cho cái biết trực tiếp hiển lộ mà không can thiệp. Ngay khi cái biết trực tiếp hiển lộ, sẽ không có tham sân sinơi đó.

Đức Phật dạy trong Kinh SN 35.80, bản dịch của Thầy Minh Châu như sau (chữ “thắng tri” -- directly know -- là biết trực tiếp, chữ “liễu tri” là biết trong chứng nghiệm vô ngãly tham):

Ở đây, này Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo có nghe: “Các pháp không nên thiên chấp”. Này Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy nghe như sau: “Tất cả các pháp không nên thiên chấp”, vị ấy thắng tri tất cả các pháp. Do liễu tri tất cả pháp nên thấy tất cả tướng có thể thay đổi … Vị ấy thấy con mắt có thể thay đổi … các sắc … nhãn thức … nhãn xúc … Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy thấy cảm thọ ấy có thể thay đổi. Này Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo biết vậy, thấy vậy nên vô minh được đoạn tận, minh được sanh khởi.” (11)

Cái biết trực tiếp đó hiển nhiên là cái biết của “không nghĩ thiện, không nghĩ ác” trong Kinh Pháp Bảo Đàn. Cái biết trực tiếp đó không trải qua bất kỳ níu kéo, xua đầy, giằng co, vướng víu… nào cũng là lời dạy trong Kinh Bahiya Sutta, khi Đức Phật dạy ngài Bahiya rằng hãy để cái được thấy là cái được thấy, hãy để cái được nghe là cái được nghe… và đó là giải thoát.

Chính ngay trong cái biết trực tiếp đó, chính là cảnh giới siêu xuất cả chỉ và quán, và với thời gian, từ cái biết trực tiếp (thắng tri) là rất gần với cái biết của giải thoát (liễu tri). Nơi đây, không cần khởi tâm tu chỉ hay tu quán, mà tất cả các thiện pháp đều hiển lộ. Đó cũng chính là nơi vua Trần Thánh Tông  đã nói là “Dụng của chân tâm, tỉnh tỉnh lặng lặng…”

GHI CHÚ:

(1) Kinh AN 10.54: https://suttacentral.net/an10.54/vi/minh_chau

(2) Kinh SN 48.9: https://suttacentral.net/sn48.9/vi/minh_chau

(3) Kinh AN 4.162: https://suttacentral.net/an4.162/vi/minh_chau

(4) Kinh AN 6.73: https://suttacentral.net/an6.73/vi/minh_chau

(5) Kinh AN 9.36: https://suttacentral.net/an9.36/vi/minh_chau

(6) Kinh SN 47.2: https://suttacentral.net/sn47.2/vi/minh_chau

(7) Kinh SN 47.37: https://suttacentral.net/sn47.37/vi/minh_chau

(8) Kinh SN 22.51: https://suttacentral.net/sn22.51/vi/minh_chau

(9) Kinh Ud 3.5: https://suttacentral.net/ud3.5/en/sujato

(10) Kinh Pháp Bảo Đàn: https://thuvienhoasen.org/p16a681/pham-tua-thu-nhat  

(11) Kinh SN 35.80: https://suttacentral.net/sn35.80/vi/minh_chau

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 768)
Người tu học Phật đều biết rằng, Bát Chánh đạolà nền tảng quan trọng của toàn bộ giáo pháp Thế Tôn.
(View: 780)
Chúng ta không thể nào trường sanh bất tử, trẻ đẹp, và mạnh khỏe mãi mãi được trên đời.
(View: 903)
Tu hành là gì? Có phải nhất định cần thoát ly cuộc sống, chạy vào trong chùa niệm kinh lạy Phật...
(View: 1729)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(View: 952)
Để đoạn tận tất cả tà kiến thì phải trau dồi chánh kiến. Chánh kiến ở đây là cái gì?
(View: 1200)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(View: 767)
Đúng thế, đời là vô thường, huyễn mộng ai ai cũng biết. Nhưng chúng ta không thể nào ngồi im mà thụ động tại chỗ.
(View: 769)
Đức Phật đã dạy các nhà sư nên đi lang thang thế nào? Các bản tiếng Anh thường dùng chữ “wander” để nói về hành vi lang thang.
(View: 654)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(View: 660)
Pháp thoại này Thế Tôn dạy Tôn giả La-vân (La-hầu-la) quán chiếu về thân nghiệp giống như đang soi gương thấy rõ mặt mình dơ hay sạch.
(View: 1133)
Cứ mỗi độ Vu Lan lại về với chúng ta, chính lúc đó là mùa Báo Hiếu, không biết bao nhiêu người con, từ khắp bốn phương nhớ tưởng đến công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ…!
(View: 755)
Bài pháp thoại này được nói tại một ngày tu Chánh niệmTu viện Tisarana, vào tháng Ba năm 2008.
(View: 747)
Bài viết này được chuyển thể từ một bài báo xuất bản đầu tiên trên Tina Lear's Medium.
(View: 753)
Hình như bất cứ lãnh vực nào, bước vào chuyên sâu, đều luôn có những chướng ngại, hoặc chướng duyên;nhất là hành giả trên con đường tâm linh giải thoát.
(View: 780)
Về câu hỏi, thế nào là thời mạt Pháp? Tôi được nghe câu trả lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi nói chuyện tại chùa Viên Giác
(View: 815)
Phàm phu thì sống trong thức phân biệt, nên thấy có sanh tử và không ra khỏi. Trái lại, bậc thánh thì sống trong trí và do đó thoát khỏi sanh tử:
(View: 772)
Phàm là người xuất gia ở chốn Tòng Lâm, tự viện, phải sống đời phạm hạnh, nghiêm trì giới luật đã thọ, giữ gìn oai nghi tế hạnhtrang nghiêm tự thân, kính trên nhường dưới, từ ái với mọi người.
(View: 738)
Bất cứ trong một tổ chức nào, từ chính trị đến xã hội, từ Tôn giáo đến đoàn thể…đều cần có một lý thuyết nền tảng vững chắc để làm cơ sở triển khai mọi sinh hoạt.
(View: 895)
Mỗi ngày trong cơ thể ta đều có những tế bào cũ chết đi và những tế bào mới sinh ra nhưng có bao giờ chúng làm đám tang hay tổ chức sinh nhật cho chúng đâu
(View: 796)
Chúng ta thường nghe nói rằng Thiền Tổ Sư là dạy pháp vô niệm, vô tâm.
(View: 833)
Như lý tác ý là khởi nghĩ, hướng tâm về mọi sự vật và hiện tượng đúng như lời dạy của Đức Phật.
(View: 812)
Một thời Đức Phật trú tại nước Xá-vệ, ở trong Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tônnói với các Tỳ-kheo:
(View: 800)
Thân là thân thể của con người. Niệm là ghi nhận, quan sát. Xứ là lĩnh vực, là đề mục để hành giả quan sát tu tập.
(View: 823)
“Chiếc áo không làm nên nhà sư”, nghĩa bóng của nó như một lời nhắc nhở mọi người, đừng vội đánh giá người khác qua hình thức bên ngoài.
(View: 869)
Có phải bây giờ đã tới thời mạt pháp? Hay là sắp tới thời mạt pháp?
(View: 902)
Tánh Không được đồng hóa với như mộng. Đây là điều hệ thống Kinh Đại Bát Nhã thường nói.
(View: 1004)
Toàn thể thế giới chúng ta, bên ngoài là thế gian, bên trong là tâm. Tất cả chúng là một biển vô tận của các pháp hữu vi đang vận hành.
(View: 782)
Việc tu tậpthiền viện nhấn mạnh vào việc hoàn thành mọi công tác tốt đẹp. Là tu sĩ, chúng tôi đặt nặng giá trị của việc chánh niệm về những điều bình thường
(View: 818)
Danh vọng nương nơi cái tôi mà tồn tại. Không có cái tôi, danh vọng không hiện hữu.
(View: 984)
Đã tử lâu lắm rồi, người Phật tử đã nghe nói về thời mạt pháp.
(View: 873)
Gần đây chúng ta thấy xuất hiện trên mạng xã hội nhiều bài viết kêu gọi người Phật tử phải cảnh giác với việc “trộm tăng tướng” hay “tặc trụ”.
(View: 865)
Trong nhiều bài pháp tôi đã viết, thì thường đề cập đến vấn đề làm phước, tích phước, tích đức, hay tu thiện... V
(View: 944)
Bố thícúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi này tốt đẹp hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên đường giải thoát.
(View: 896)
Thuyết âm mưu không phải là vấn đề mới, nó vốn xảy ra từ xa xưa, bên Đông hay bên Tây đều có cả.
(View: 1023)
Sự xuất hiện của hành giả Thích Minh Tuệ đã tạo ra một biến động chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam.
(View: 1028)
Bệnh đau là chuyện tất yếu của con người. Trừ những người có phước đức về sức khỏe sâu dày, còn lại hầu hết đều trải qua bệnh tật.
(View: 1048)
Thời thơ ấu, chúng ta ưa thích đọc truyện Cô Ba Cháo Gà Địa Ngục Du Ký, rồi ưa nghe kể chuyện vong nhập, chuyện trừ tà…
(View: 2784)
Con đi Tu là để cầu giải thoát, hàng ngày con chỉ xin ăn một bữa, con không nhận tiền của ai.
(View: 1018)
Karma là một từ tiếng Phạn có nghĩa là “hành động”. Một cách đơn giản để hiểu nghiệp là nhìn nó như những khoảnh khắc nhân quả.
(View: 1049)
Từ nghệ thuật, có những nhân vật bước ra đời sống. Từ đời sống, cũng có vài con người đi vào nghệ thuật. Nhưng trở thành hình tượng trung tâm
(View: 954)
Làm sao có được hòa bình và hạnh phúc trong thế giới đầy biến độngnghi kỵ như hiện nay?
(View: 1125)
Cho tới hôm nay, “hạnh đầu đà” không còn là cụm từ xa lạ. Nhắc đến nó ta sẽ nghĩ ngay đến sư Minh Tuệ, mặc dù ông không phải là người thực hành hạnh này đầu tiên và duy nhất.
(View: 1106)
Nhân duyên đưa đến lời dạy này của Đức Phật bắt nguồn từ sự cầu thỉnh chân thành của trưởng giả tên là Kiên Cố(Kevadha)
(View: 1078)
Thực ra, chúng ta không cần tới “một Phật Giáo” nào khác cho thế gian hay cho xuất thế gian,
(View: 962)
Thực hành Chánh Phápvì lợi ích chúng sinh, muốn chúng sinh được thoát khổ, an vui.
(View: 1117)
Ngay cả vũ trụ cũng không thoát được luật nhân quả, luân hồi (tái sinh.)
(View: 1067)
Con người hơn loài thú vật nhờ ngôn ngữ. Ngôn ngữ giúp con người thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, thậm chí giúp cho ý nghĩ sáng tạo - vì tư duytư duy trên và bằng ngôn ngữ.
(View: 1133)
Ngày từng ngày vơi đi như cát biển khô chảy qua kẽ ngón tay Đời từng đời nối tiếp như nước sông chảy ra biển
(View: 1428)
Gấn một tháng nay, hiện tượng thầy Minh Tuệ gây xôn xao trên mạng xã hội, trong và ngoài nước;
(View: 1820)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM